Bài 15:
Cơn khủng hoảng của Êli
(I Các Vua
19:4-14)
PHẦN GIỚI THIỆU:
Theo bài
học vừa qua, những phần đối chiếu giữa I Các Vua 18 và I Các Vua 19 rất sắc nét
và đáng kinh ngạc. Chúng khác biệt nhau y như đêm với ngày vậy. Trong một
chương Êli rất can đảm và dạn dĩ, ông hiên ngang đối diện đủ loại thử thách với
phần kết của chương như sau: “Tay
Đức Giêhôva giáng trên Êli; người thắt lưng, chạy trước Aháp cho đến khi tới
Gítrêên”. Êli đã nếm trải năng lực siêu nhiên của Đức Chúa Trời để
làm ra những việc phi thường. Thế nhưng đến chương 19, chúng ta thấy Êli đang
sợ hãi, hoảng sợ bỏ chạy, kiệt sức, ngã
lòng, rồi muốn chết.
Trong phân
đoạn Kinh thánh ở trước mặt chúng ta, chúng ta thấy lý do cho sự thay đổi có
nơi Êli. Vua Aháp thuật lại cho Giêsabên mọi điều Êli đã làm. Bà ta phản ứng
với sự căm hận và đe doạ lấy mạng của Êli. Êli bỏ chạy thục mạng đến Bêesêba
trong sa mạc thuộc địa phận Nam Giuđa. Bỏ đầy tớ của mình lại, ông tiếp tục
chuyến hành trình khác vào sâu hơn trong sa mạc, ngồi dưới cây giếng giêng và,
với sự ngã lòng sâu sắc, ông cầu xin Đức Chúa Trời hãy để cho ông chết đi.
Bạn có bao
giờ rơi vào mức độ đó, với vẻ ảm đạm vô vọng và thất bại khi mọi điều trông
mong của bạn đã không còn nữa trên gương mặt của bạn? Tôi không biết Êli đang
trông mong điều gì!?! Với quyền năng của Đức Chúa Trời đã tỏ ra rõ ràng như
vậy, có lẽ Êli đã nghĩ sẽ có một số thay đổi nơi Aháp, một đáp ứng tích cực với
kết quả sẽ có một số thay đổi trong Vương quốc Israel . Kinh thánh không nói cho
chúng ta biết. Chúng ta chỉ có ức đoán mà thôi. Nhưng có một việc thực sự làm
đảo lộn cái nhìn của Êli và đức tin của ông. Chúng ta hãy xem qua phân đoạn
Kinh thánh và nhìn thấy những điều chúng ta có thể tiếp thu.
Aháp thuật lại
các biến cố cho Giêsabên (19:1)
Vua Aháp
có đặc ân nhìn thấy quyền phép cả thể của Đức Chúa Trời bày tỏ ra, danh xưng
của Đức Giêhôva được xác minh, và các tiên tri Baanh đã bị đánh bại và bị huỷ
diệt nặng nề. Thế nhưng đối với Aháp tất cả mọi điều nầy chẳng nhằm nhò gì hết.
Mọi hành động của vị vua gian ác nầy đáng phải là một sự cảnh cáo cho hết thảy
chúng ta, vì Kinh thánh cho thấy chính những thứ chai lì nầy đang tác động vào
những người chưa tin Chúa, cũng có thể tác động vào số người tin Chúa nữa. Có
những người đi vòng quanh hôm nay xưng nhận rằng những việc như thế nầy không
thể xảy ra cho người tin Chúa, rằng đời mới của chúng ta trong Đấng Christ đang
chủng ngừa cho chúng ta. Nhưng chúng ta có thể vây quanh Ngôi Lời, nghe Lời ấy
dạy dỗ, và thậm chí kinh nghiệm công việc của Đức Chúa Trời trong đời sống
chúng ta mà vẫn ngày càng hững hờ (đối chiếu Hêbơrơ 3:7…; Mác 6:52; 8:17-18;
Khải huyền 3:15-16).
Chúng ta
đọc: “Aháp
thuật lại cho Giêsabên mọi điều . . .”. Bản Kinh thánh
Hêbơrơ có hành động của động từ nagad
chia theo thì quá khứ liên tiến chưa hoàn thành, “dễ
nhận ra, rõ ràng” rồi kế đó là: “trình
bày chi tiết, tuyên bố, làm cho biết rõ”. Chắc chắn là Aháp
đã công bố ra từng chi tiết các biến cố trong ngày, từng điểm một. Giống như
phương tiện truyền thông thường thực hiện ngày nay, ông ta đã bóp méo nhiều
việc và không trình bày sự thật vì tánh kiêu ngạo và vô tín của ông ta đã làm
cho ông ta chai lì chống lại lẽ thật. Kết quả là, ông ta đã đem rắc rối và đau
khổ nặng nề đến cho Êli, cho bản thân ông ta, và cho xứ sở của ông ta nữa.
Hãy chú ý
Kinh thánh chép: “. . . mọi điều Êli đã làm, và người đã dùng gươm
giết hết thảy tiên tri Baanh làm sao. . .”. Đúng là
bản chất của con người! Hãy chú ý một lần nữa phần nhấn mạnh: “mọi điều Êli
đã làm”. Ông đã không nhìn thấy Đức Chúa Trời trong mọi điều đã
xảy ra và Êli chỉ là công cụ của Đức Chúa Trời mà thôi. Giống như nhiều người
ngày nay, ông ta hoàn toàn bị cuốn hút vào một người và kết quả, đã mô tả sai
sự thật về mọi việc đã xảy ra. Bị thái độ kiêu căng tác động, dù nó đã bị tổn
thương, cơn giận và tức tối của ông ta nghịch cùng Êli đã làm cho ông ta mù quáng không nhìn thấy
công việc của Đức Chúa Trời cùng sự mặc khải của biến cố.
Khi chúng
ta tự hào bảo hộ người lân cận của mình, khi chúng ta hướng mắt mình nhìn vào
con người và những gì họ đã nói hay làm, chúng ta không nhìn thấy Đức Chúa Trời
đang hành động. Khi mắt chúng ta nhìn vào con người, dù là khâm phục đời sống
của một người hoặc trong sự tức tối như với Aháp, chúng ta bỏ qua sự thật. Thực
thế, chúng ta vặn cong sự thật, chúng ta thổi phồng nó lên không theo đúng hình
thù của nó, hoặc giấu giếm hoàn toàn sự thật đó. Chúng ta bị mù quáng không
nhìn thấy công việc của Đức Chúa Trời. Mọi sự chúng ta nhìn thấy chỉ là tình
thế. Khi điều nầy xảy ra, chúng ta không thể đáp ứng với loại hành động đúng đắn
– với chức vụ, với sự chịu đựng, và với đức tin.
Khi nhắm
vào con người, điều nầy gần như dẫn tới một hệ quả khác. Trong chỗ yêu thương
và đức tin dạn dĩ, chúng ta gây ra đau khổ cho mọi người có quan hệ (đối
chiếu Hêbơrơ 12:1-15). Khi con người nhắm vào con người, một trong hai việc
sẽ xảy ra: (a) một là họ khoe về con người mà họ khâm phục, điều nầy đem lại sự
cám dỗ cho người đó và khích lệ nhiều người khác khoe khoang về con người, hoặc
(b) họ công kích, phê phán, đem lại sự bắt bớ và cơn đau tim. Khi Đức Chúa Trời không ở ngay trọng tâm,
chúng ta lạc sai.
Tôi lấy
làm lạ không biết điều chi sẽ xảy ra nếu Aháp đã nhìn thấy Đức Chúa Trời trong
các sự cố xảy ra trên Núi Cạtmên rồi tường trình lại y như thế cho Giêsabên.
Tôi lấy làm lạ không biết điều chi sẽ xảy ra nếu ông ta nói: “Tôi đã nhìn thấy Đức Chúa Trời, Đức Giêhôva của Israel , đang
hành động ngay hôm nay. Tôi đã nhìn thấy Ngài chứng minh Ngài chính là Đức Chúa
Trời chơn thật. Ngài đã giáng lửa xuống từ trời và đã làm công việc mà các tiên
tri Baanh bất lực không làm được. Ngài là Đức Chúa Trời và các tiên tri Baanh
là giả dối. Vì lẽ đó, nhà nầy sẽ phải bước theo Ngài thôi”. Thay vì
thế, ông ta đã bất chấp không màng tới các sự thật về Đức Giêhôva, và đã kéo sự
chú ý vào các hành động của Êli – thể nào Êli đã chế giễu các thầy tế lễ thần
Baanh, làm cho họ phải rối rắm, và cuối cùng đã nhờ dân chúng phụ giết họ. Phản
ứng của Vua Aháp đã cất đi mất sự vinh hiển ra khỏi Đức Giêhôva, tập trung chú
ý vào công cụ, rồi thổi bùng lên các ngọn lửa ghen ghét, báo thù, và căm hận.
Rồi kết quả là, mục tiêu của ông ta đã loại bỏ bất kỳ một cơ hội nào cho sự ăn
năn.
Giêsabên phản ứng
với sự báo thù (19:2)
Không có
khả năng xúc phạm đến Chúa, Giêsabên đã làm những gì Satan và con người luôn
luôn làm. Bà ta đã tấn công công cụ và trút đổ mọi dã tâm và căm hận của mình
vào đấy. Bà ta đã sai một sứ giả đến với lời đe doạ của bà ta. Giờ đây tôi hỏi
bạn nhé! Nếu bà ta biết rõ Êli ở đâu, tại sao bà ta không gửi một trung đội
lính đến giết Êli? Tại sao lại sai một sứ giả đến cảnh cáo ông hầu cho ông có
thời gian để trốn tránh? Điều nầy chỉ ra bàn tay tể trị tuyệt đối của Đức Chúa
Trời và thể nào Đức Chúa Trời sử dụng cơn giận của loài người để làm vinh hiển
cho Ngài. Có lẽ sở dĩ như vậy là vì bà ta sợ dân chúng, là số người đã phụ giết
chết các thầy tế lễ Baanh và họ hiện đang ở bên cạnh Êli. Cho nên bà ta đã tấn
công Êli bằng một lời đe doạ. Cũng hãy lưu ý bà ta vẫn còn tin cậy vào các thần
của mình dù họ đã bị bày ra là bất lực và vô năng.
Điều nầy
thể nào đã tỏ ra tình trạng mù quáng và ngoan cố của tấm lòng con người. Con
người bướng bỉnh bám vào các vị thần do họ tự tạo ra gồm chủ nghĩa nhân đạo,
chủ nghĩa vật chất, quyền lực, hay bất luận điều chi khác. Mọi hành vi của
Giêsabên đều thể hiện ra theo bản chất của bà ta. Có lẽ chúng ta sẽ cho là vậy,
nhưng không phải thế với Êli. Hành động của Êli hoàn toàn xuất phát từ bản
năng, nhưng hành động ấy góp phần nhắc cho chúng ta nhớ tới tình trạng không
được bảo vệ của từng người một –ấy là chúng ta mỗi người phải giữ kẻo ngã.
Êli trốn chạy để
cứu lấy mạng sống mình (19:3-4)
Phân đoạn
Kinh thánh chép: “Êli sợ hãi”. Có một nan đề ở đây. Những phụ
âm của chữ Hy bá lai “sợ hãi” (scared) và các phụ âm
của thì chưa hoàn thành của động từ “thấy” (saw)
đều giống nhau. Vì thế các bản dịch Kinh thánh Anh ngữ KJV và ASV đều có: “và ông thấy”.
Cái khác biệt trong sự phiên dịch nằm ở chỗ chú ý phần nguyên âm. Nhưng gần như
các bản dịch Kinh thánh khác NASB, RSV, NIV, Amplified, v.v..., đều có “và ông đã bắt
sợ hãi”.
Có người
đề xuất bản Kinh thánh Massoretes đã chỉ ra các nguyên âm vì họ không muốn gán
chữ sợ hãi cho vị đại tiên tri. Một số nhà giải kinh đã nối theo lối lý luận
cho rằng sợ hãi không có nơi bổn tánh của Êli. Họ nói chuyến đi của ông xuống
Bêesêba rồi đi xa hơn không phải là cuộc bỏ chạy để cứu lấy mạng sống của ông,
mà là một chuyến đi để ở riêng với Đức Chúa Trời kể từ khi ông nhìn thấy mọi
tình thế sẽ không thay đổi. Tôi tin lối lý giải nầy là sai vì các lý do sau
đây: (a) “Chạy
đi” là halak
có nghĩa là “ra đi, bước đi, đi tới, chuyển dịch”,
nhưng chữ nầy có thể là một chữ đồng nghĩa với việc bỏ chạy nếu văn mạch có
ý nói như thế. Những từ theo sau động từ nầy: “đặng cứu mạng sống mình”,
là những gì đề nghị ý kiến bỏ chạy đặng cứu lấy mạng sống của ông. (b) Phần
nội dung nói tới mọi hành động của Giêsabên ủng hộ quan điểm cho rằng Êli đã bỏ
chạy đặng cứu lấy mạng mình. (c) Câu nói của Giacơ cho rằng Êli là một người có
bổn tánh giống như chúng ta xuất phát từ các hành động của Êli trong chương
nầy.
Nếu “thấy”
(saw) là phần phiên dịch đúng, nó vẫn không dời đi yếu tố sợ hãi nầy của
ông đến nỗi ông phải bỏ chạy ra khỏi khu vực đó. Mặc dù vậy, có một vài điểm
nổi bật như sau: (a) những mong đợi của chúng ta, (b) cách nhìn của chúng ta,
(c) chiến lược của chúng ta, và (d) các kết quả, điều nầy tỏ ra thể nào mục
tiêu của chúng ta (cách chúng ta nhìn thấy một tình huống) có thể làm
cho chúng ta mạnh mẽ lên và khích lệ chúng ta, hoặc làm cho chúng ta trung lập
đổi chúng ta thành hạng người lằm bằm than thở hay không thoả lòng, ngã lòng.
Những
điều trông mong của chúng ta
Có lẽ bài
học đầu tiên chúng ta có thể tiếp thu từ phản ứng của Êli có liên quan tới
những điều chúng ta trông mong cùng cái chạm của chúng trên chúng ta. Như đã
nhắc tới rồi, ông đang trông một điều rất khác biệt – một việc tích cực nhất.
Ông đang trông mong một sự xoay chuyển thực sự nơi các vụ việc thuộc linh của
Vương quốc và mọi điều trông mong của ông được chuyển thành lãnh vực đòi hỏi.
Cuộc sống
đầy dẫy những ngao ngán và nếu chúng ta không cẩn thận đủ, những mong đợi đó sẽ
làm cho chúng ta trật đường rầy khi tấm lòng chúng ta bắt đầu đòi hỏi. Không có
gì là sai trật cho chúng ta khi hy vọng điều tốt đẹp nhất và trông ngóng Chúa
về điều đó. I Côrinhtô 13:7 chép: “Tình yêu thương . . . tin mọi sự, hy vọng mọi sự”.
Cũng thực như thế cho đức tin theo Hêbơrơ 11:1. Nhưng I Côrinhtô 13:7 cũng
chép: “tình
yêu thương dung thứ mọi sự, . . . nín chịu mọi sự”.
Làm ơn lưu ý, tin và hy vọng được đưa vào giữa việc dung thứ và nín chịu.
Đức Chúa
Trời buộc chúng ta phải chịu trách nhiệm về việc tin cậy Ngài, về sự vâng phục,
về tình cảm, về sự nhịn nhục, và về sự trung tín làm theo những điều Ngài kêu
gọi chúng ta phải lo làm. Ngài không buộc chúng
ta phải chịu trách nhiệm về mọi kết quả. Những kết quả đó đều nằm
trong hai bàn tay của Ngài, chớ không ở trong tay của chúng ta. Chúng ta không
thể làm thay đổi con người được, và chúng ta không thể làm thay đổi mọi cảnh
ngộ của chúng ta, chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể làm được mà thôi. Hơn nữa,
những điều chúng ta trông mong rất dễ dàng rơi vào chỗ đòi hỏi – đòi hỏi mọi
việc phải tỏ ra theo đường lối chúng ta nghĩ chúng phải tỏ ra. Khi rơi vào chỗ
đó, chúng ta đang chiếm lấy quyền tể trị của Đức Chúa Trời rồi hành động giống
như thể chúng ta loài thọ tạo lại chính lại Đấng Tạo Hoá toàn tri vậy (đối
chiếu Gióp 40:1-9). Khi chúng ta nhắm vào mọi điều mình trông mong và biến
mọi kết quả chúng ta muốn thành nguồn hạnh phúc, an ninh, hay ý nghĩa của chúng
ta, chúng ta đang rơi vào hội chứng của Êli – sợ hãi, sẵn sàng bỏ chạy, và bị
chìm sâu xuống các cảm giác thất bại và ngã lòng hoặc sợ hãi và vỡ mộng.
Cái
thấy của chúng ta
Nếu “thấy”
là cách đọc đúng, thì đây là cách đọc có
ý nhấn mạnh. Dù là cách nào, vấn đề thấy của chúng ta đúng là một vấn đề quan
trọng. Êli vốn biết rõ tiếng tăm và bản chất của Giêsabên. Giờ đây, không thoả
lòng với sự xoay chiều của các biến cố và với những điều mình trông mong đã tan
vỡ, ông hướng mắt mình nhìn về mọi tình thế – bà hoàng hậu gian ác đương giận
dữ, lính tráng dưới quyền của bà ta, niềm tin mà bà ta cứ khăng khăng trong mọi
dự tính của mình, và bản tánh nhút nhát của Vua Aháp, vua không thể và sẽ không
kềm chế được vợ của mình.
Một số
nguyên tắc chúng ta có thể tiếp thu được từ cái thấy và đáp ứng tiêu cực của vị
tiên tri:
(1) Chúng
ta không bao giờ bước đi bởi mắt thấy – như những việc đã xảy tới cho chúng ta.
Chúng ta cần phải bước đi bởi đức tin trong quyền tể trị và sự khôn ngoan tối
cao của Chúa (II Côrinhtô 5:7; Thi thiên 103:19; 115:3). Có phải điều
nầy có nghĩa là chúng ta phải bất chấp các nan đề hoặc bất chấp chúng đến độ
chúng ta vùi đầu mình trong bãi cát giống như loài đà điểu mà ai cũng biết –
nếu chúng thực sự làm như thế không? Tôi không nghĩ như thế! Chỉ có đức tin yếu
đuối mới tìm cách bất chấp các nan đề mà thôi (đối chiếu Dân số ký 13:1-2;
Rôma 4:19).
(2) Thay
vì thế, chúng ta cần phải tập trung vào Chúa rồi tìm cách nhìn qua phía bên kia
các nan đề bằng con mắt đức tin. Bởi đức tin chúng ta cần phải nhìn thấy những
thực tại không thấy được bằng mắt thường về Thân Vị của Đức Chúa Trời và về sự
thành tín trong các lời hứa cùng những nguyên tắc của Ngài cho sự sống như đã
được bày ra trong Kinh thánh (Thi thiên 19:7-9; 93:5; Rôma 4:17-21).
Trong Rôma 4:16, Ápraham được gọi là cha đức tin. Với Ápraham là cha đức tin
của chúng ta, chúng ta có thể thu thập được bốn việc về loại đức tin mà Đức
Chúa Trời muốn chúng ta phải có:
· Ông
tin cậy nơi Thân Vị của Ngài (các câu
17, 21): “Đức Chúa Trời, tức là Đấng người đã tin, là Đấng ban sự
sống cho kẻ chết, gọi những sự không có như có rồi”. “. . . Ngài cũng có quyền làm trọn được”.
Đức tin biết Đức Chúa Trời là Đấng làm cho sống những việc đã chết và gọi những
sự không có như có rồi. Cái thấy ở đây là Thân Vị của Đức Chúa Trời.
· Ông
biết rõ nan đề (câu 19): “Người thấy thân thể mình hao mòn, vì đã gần đầy trăm
tuổi…song đức tin chẳng kém”. Nói cách khác, ông không hành động
như chẳng biết tới nan đề. Ông đã đối diện với nan đề, nhưng đã nhìn qua bên
kia nó để thấy Chúa.
· Ông
rất quen thuộc với và tin chắc vào các lời hứa của Đức Chúa Trời (các câu
17, 18, và 21). Nói cách khác, ông biết rõ và đòi hỏi các lời hứa của Đức
Chúa Trời. Ông đã đứng trên sự thành tín của Đức Chúa Trời luôn giữ các lời hứa
của Ngài.
· Ông
trung tín chống lại mọi sự chao đảo (các câu 18a và 20): “Người cậy
trông khi chẳng còn lẽ trông cậy” và “người chẳng có lưỡng lự hoặc hoài nghi”.
Bất chấp mọi khó khăn, ông dung chịu và tin Đức Chúa Trời đang nắm quyền tể trị
và sẽ thành tín với những gì Ngài đã hứa, ngay cả lời hứa nói đến sự sống lại (Hêbơrơ
11:17-19).
(3) Vì lẽ
đó, bởi đức tin, chúng ta phải tiếp tục lo làm những việc mà Đức Chúa Trời đã
kêu gọi chúng ta làm như cầu nguyện, tin cậy, phục vụ, hầu việc, đi bác sĩ hay
hội ý, v.v... Tuy nhiên, Đức Chúa Trời cấm đoán chúng ta bỏ chạy trước Chúa hầu
thoát thân và bảo vệ những chiến lược phòng thủ qua đó chúng ta tìm cách làm
thay đổi, lôi kéo hay làm chủ tình huống.
(4) Bất cứ
lúc nào chúng ta bước đi bởi mắt thấy, chúng ta đánh mất đi ơn phước và sự tiếp
trợ của Đức Chúa Trời. Điều nầy không có nghĩa là Ngài bỏ quên chúng ta. Đức
Chúa Trời không quên Êli đâu. Thực vậy, Ngài đã tìm gặp ông và phục vụ cho ông.
Tuy nhiên, trong những lúc chúng ta vô
tín, chúng ta đánh mất ân huệ tốt nhất của Đức Chúa Trời. Hãy chú ý các trường
hợp sau đây: (a) Lót chọn theo mắt thấy, chớ không theo đức tin, và kết cuộc là
mất hết mọi sự (Sáng thế ký 13:1-13). (b) Ở Cađe-Banêa, người ta đã bước
đi bởi mắt thấy rồi đánh mất đặc ân bước vào đất hứa. Trong 40 năm họ phiêu bạt
trong đồng vắng (Dân số ký 13:33 và Hêbơrơ 3:18-4:2).
(5) Sau
cùng, thật là yên ủi khi nhớ rằng chúng ta không thực bận bịu với Chúa và các
nan đề của chúng ta cùng một lúc được. Rõ ràng là chúng ta vốn biết rõ chúng,
nhưng cái nhìn của chúng ta cần phải hướng về Cứu Chúa. “Hãy nhìn xem Chúa . . .”
trong Hêbơrơ 12:2 là từ aphorao tiếng Hy lạp ra từ chữ apo, “từ”
và horao, “thấy”
theo sau là một giới từ eis, “cùng”. Ý nghĩa cơ bản là “nhìn từ Giêxu và cùng Giêxu”.
Có một bài
hát rất được ưa chuộng vào thập niên 1950 với lời lẽ: “Ôi buổi sáng xinh đẹp sao! Ôi buổi sáng xinh đẹp sao!
Tôi có cảm giác thật tuyệt vời, mọi sự đều xuôi chèo mát mái”. Bài
hát nầy chỉ ra thái độ đặc thù của người thế gian. Đây là đường lối mà chúng ta
ưa thích, nhưng đấy không phải là phương thức mọi việc xảy có trong một thế
giới sa ngã. Mong muốn mọi sự diễn ra theo đường lối của chúng ta không những
là phi thực tế, mà còn là tự mãn nữa. Nó cũng chỉ ra chúng ta đang tìm kiếm sự
an ninh và hạnh phúc của mình trong những lúc thuận tiện hơn là trong Chúa Toàn
Năng. Đây là cuộc sống theo mắt thấy, chớ không phải theo đức tin.
Ngược lại,
vị sứ đồ nói: “Hãy
vui mừng trong Chúa luôn luôn, tôi lại nói nữa, hãy vui mừng đi”
(Philíp 4.4). Nhưng ông đã thốt ra câu nói đó ở đâu mới được? Trong khi mọi
chuyện đều diễn tiến theo đường lối của ông chăng? KHÔNG! Ông đã thốt ra câu
nói ấy khi ông bị xiềng xích mỗi ngày với một tên lính La mã chờ xét xử, ở đó
họ đòi lấy cái đầu của ông. Ông đã thốt ra câu nói đó trong khi những người
khác đang tìm cách gây hại cho ông, thậm chí trong vòng cộng đồng Cơ đốc nữa. Thay vì thế, Phaolô đã cất tiếng hát: “Ôi buổi sáng xinh đẹp sao! Ôi buổi sáng xinh đẹp sao!
Dù mọi sự không xảy đúng y theo đường lối của tôi, Đức Giêhôva đang ngồi trên
ngôi mỗi ngày”.
Nan đề chiến lược của chúng
ta
Phân đoạn
Kinh thánh cho chúng ta biết Êli trốn đến Bêe-Sêba, đây là con đường xuôi về
phía Nam .
Bêe-Sêba là một vùng hoang mạc, nhưng đến độ ấy vẫn chưa đủ đâu. Êli đã để đầy
tớ của mình ở lại đó rồi đi đúng một ngày đường
vào trong đồng vắng, ở đó ông tìm chỗ nghỉ ngơi, không ở trong Đấng Toàn
Năng, mà dưới một cây giếng giêng. Loại cây nầy chỉ cao khoảng 10 đến 12 feet
cao và cung ứng một bóng mát, không lớn lắm.
Không một
chỗ nào trong chương nầy chúng ta thấy Êli kêu cầu Chúa hoặc tìm kiếm sự chỉ
dẫn của Ngài. Vấn đề không phải là ông chổi dậy và chạy, hay xuống sa mạc ẩn
trốn. Vấn đề là ông đã làm thế mà không có sự chỉ dẫn của Đức Chúa Trời và
không lấy Đức Chúa Trời làm nơi nương náu chính của mình. Chúng ta đừng quên
thể nào Đức Chúa Trời trước đây đã dẫn ông vào một chỗ hiu quạnh (I Các Vua
17:2-5), nhưng ở đây thì không phải.
Đối với
một số việc, chúng ta không cần sự chỉ dẫn can thiệp của Đức Chúa Trời. Nếu
chúng ta đang ở trên con đường dành cho xe 18 bánh, chúng ta cứ cho xe chạy nếu
có thể chạy được. Nếu chúng ta bị nhức đầu, chúng ta phải uống thuốc. Tội lỗi
của Asa trong II Sử ký 16:12 không phải là ông tìm sự cứu giúp từ các y bác sĩ,
mà là ông đã loại Đức Chúa Trời ra ngoài. Trường hợp của Êli thì lại khác. Ông
đã phản ứng lại thay vì đáp ứng với Đức Chúa Trời. Và cũng một thể ấy với chúng
ta. Chúng ta thường phản ứng thay vì đáp ứng bởi đức tin trong những việc Đức
Chúa Trời đang làm.
Còn những
điều trông mong của chúng ta thì sao? Liệu chúng có trở thành những đòi hỏi
buộc Đức Chúa Trời phải làm thoả mãn vì sự an ninh và hạnh phúc của chúng ta
không? Còn cái nhìn của chúng ta? Có phải nó nhắm vào Chúa, vào thân vị, vào
quyền tể trị, vào sự khôn ngoan của Ngài, v.v...? Còn về các chiến lược của
chúng ta? Có phải chúng ta đang tìm cách làm thoả mãn mọi nhu cần của chúng ta
bằng các giải pháp riêng, theo thì thuận tiện của mình hơn là bởi các giải pháp
của Đức Chúa Trời?
Nan đề về các kết quả
Trong bối
cảnh kế tiếp, chúng ta thấy Êli đã ngã lòng, sầu thảm, trốn tránh, và thất bại
không phục vụ cho dân tộc mình. Đây là những gì người ta gọi là “tiêu mất”. Mọi hành động của Êli không phải là
hành động của đức tin hay của mối tương giao, mà là ngã lòng và mọi kết quả
chứng tỏ điều nầy trong mấy câu nối theo sau. Các kết quả, chúng ta sẽ lần tới
đây, đều ngược lại hết với các chương 17 và 18.
Êli trong chỗ ngã
lòng (19:4, 10, 14)
Êli là một
người với một bổn tánh giống như bổn tánh của chúng ta. Giống như chúng ta, ông
đã kinh nghiệm nan đề ngã lòng – tình trạng tình cảm và lý trí được đánh dấu
bằng những cảm xúc ngao ngán, không còn có giá trị, bị chối bỏ, tội lỗi, e sợ,
và thất bại. Cuộc sống giống như một chiếc xe đang lăn xuống dốc – nhiều thăng
trầm. Chúng ta muốn kinh nghiệm hạnh phúc, niềm vui mừng, ý nghĩa và sự an ninh
đều tùy theo chúng ta đang ở đâu trên chiếc xe đó. Hết thảy chúng ta đều phải
ngồi trên chiếc xe ấy, nhưng chúng ta không bị nó khống chế. Chúng ta sẽ học
biết ngồi trên xe đó với cách xử lý thật ổn định về mặt thuộc linh, về lý trí,
và về tình cảm bất chấp chúng ta đang ở trong đồng trũng, đang ở trên những chỗ
bằng phẳng, hoặc trên một đỉnh núi nào đó. Sự ổn định về mặt thuộc linh là một
trong những ơn phước của sự chúng ta được cứu trong Đấng Christ. Chúng ta kinh
nghiệm điều nầy chỉ khi chúng ta học biết giữ cái nhìn của chúng ta nơi Chúa
cùng các mục đích của Ngài, và khi chúng ta yên nghỉ bởi đức tin nơi thân vị,
các nguyên tắc, cùng mọi lời hứa của Đức Chúa Trời (Philíp 4:11-13; II
Côrinhtô 4:8-18; Hêbơrơ 4:1-11).
Nhưng than
ôi! Hết thảy chúng ta đều có hai bàn chân bằng đất sét. Giữ cái nhìn của chúng
ta nhắm vào Chúa và lý trí của chúng ta gắn với Đức Chúa Trời ở giữa một thế
giới tội ác và sa ngã rồi nói hạnh phúc, an
ninh, ý nghĩa, (nghĩa là, mọi nhu cần của bạn), được thấy có trong mọi chi tiết của cuộc sống, không
phải là điều dễ dàng đâu. Chúng ta bị tấn công tới tấp với một thái độ chung
chung được minh hoạ trong những khẩu hiệu như: “đời
sống ngắn ngủi, nên chơi đi. Bạn chỉ đi có một vòng mà thôi, vậy hãy tận hưởng
mọi thứ mà bạn có thể”. Thậm chí khi chúng ta không bị tác
động bởi loại suy nghĩ đó – và Êli không bị – vẫn khó giữ được tính vô tư thuộc
linh của chúng ta hoặc hướng vào Đức Chúa Trời. Thật là dễ biến dạng đi trong
lớp sương mù, những đám mây dày đặc kia đôi khi bao bọc hết chúng ta. Chúng ta
tìm cách lên cao bên chiếc ghế đầy hơi thở hổn hển của mình hơn là bằng tấm ván
công cụ Kinh thánh của chúng ta. Như một kết quả, chúng ta hư mất đi hay chúng
ta đang phá vụn rồi đốt tiêu cảm xúc.
Trong
chương nầy, Êli trở thành một minh hoạ cơ bản nói tới một người đang trong cảnh
ngã lòng. Chúng ta thấy trong suy nghĩ, lời nói, và mọi hành động của ông nhiều
triệu chứng cơ bản của sự ngã lòng – lui đi hay trốn tránh, buồn rầu, sợ hãi,
tự thương hại, cảm xúc vô giá trị, mất hy vọng hay lòng tin cậy, giận dữ, cáu
gắt, đau khổ hay suy nghĩ không đúng, và kiệt sức, và đấy là một số triệu chứng
trông thấy được.
Theo hai
bác sĩ Minirth và Meier, nan đề số 1 ở Mỹ là ngã lòng. Họ nói:
Là chuyên
gia tâm thần, chúng tôi nhìn thấy có nhiều người chịu khổ từ bịnh ngã lòng hơn
so với các nan đề về mặt tình cảm khác cộng lại . . . Trong lúc hiện tại
nầy, một người Mỹ ở tuổi 20 được chẫn đoán về mặt y khoa là đang chịu khổ từ
bịnh ngã lòng . . . tất nhiên, có nhiều, nhiều người đang lâm cảnh
ngã lòng mà chẳng hề nhận lãnh sự giúp đỡ. Theo một đánh giá khoảng 20 triệu người
ở nước Mỹ giữa 18 và 74 tuổi hiện đang bị chứng ngã lòng . . . Ngã
lòng xảy ra hai lần thường thì nơi người nữ hơn là người nam, và nó xảy ra ba
lần thường hơn nơi các nhóm có kinh tế xã hội cao hơn. Tiền bạc chắc chắn không
mua được hạnh phúc. Ngã lòng xảy ra thường ở các thập niên thứ tư và thứ năm
trong cuộc sống, nhưng có thể xảy ra trong suốt thời kỳ căng thẳng từ trẻ sang
già.
Các thống
kê nầy rất thú vị và quan trọng vì chúng ta sống trong một thời kỳ và trong một
quốc gia ở đó người có tuổi trung bình có một cấp độ thịnh vượng có lẽ cao hơn
bất kỳ thời điểm nào khác trong lịch sử. Con người có thể thêm nhiều chi tiết
trong cuộc sống, nhiều khả năng dành cho khoái lạc, du lịch, vui chơi, và xa xỉ
hơn trước đây nhiều. Tuy nhiên, ngã lòng là nan đề chính trong quốc gia nầy.
Paul Meier nói:
Tôi đã gặp
hàng triệu thương gia bước vào văn phòng của tôi rồi nói cho tôi biết họ có nhà
to cửa rộng, nhiều du thuyền, nhiều căn hộ ở Colorado , vợ đẹp con xinh, người vợ không
biết nghi ngờ, những địa vị vững chải trong đoàn thể –và các khuynh hướng muốn
tự tử.
Chúng ta
nghĩ có sự ngã lòng trong hạng người nầy. Nhưng, tôi dám chắc bạn biết rõ, và
như các thống kê trên đây giúp đỡ, ngã lòng đúng là một nan đề lớn giữa vòng
các tín đồ và thậm chí giữa vòng những người có chức vụ trọn thời gian nữa. Nan đề về sự ngã lòng trong chức vụ giữa vòng các vị giáo
sĩ và Mục sư là to lớn lắm. Tại sao nhắc tới mọi điều nầy khi nói tới Êli? Vì
nó nhấn mạnh tính yếu đuối của chúng ta là những Cơ đốc nhân tin theo Kinh
thánh. Ngã lòng là một tệ nạn gây tàn phá, gây suy nhược đang tác động toàn bộ
con người chúng ta – thân, hồn, thần. Và một cách tiêu cực, nó chạm tới chúng
ta về mặt thuộc linh, về tình cảm, và về thể xác.
Hãy lưu ý
một vài sự kiện về sự ngã lòng:
(1) Ngã
lòng rất phổ thông. Chẳng ai hề để ý đến nó. Nó chạm đến người nghèo cả người
giàu, người yếu cũng như kẻ mạnh, người có học cũng như người thất học. Nó chạm
đến từng người vì, nó không do hoàn cảnh, của cải, hay địa vị gây ra, mà đúng
hơn là bởi phương thức một người nếm trải cuộc sống nầy.
(2) Không
một ai được miễn trừ mà tránh được sự ngã lòng đâu. Nó với tới và bắt lấy những
bác sĩ, luật sư, thương gia, tài xế taxi, công nhân xây dựng, mục sư, giáo sĩ,
y tá, thư ký, người nội trợ, người làm cha làm mẹ, nông dân, tài xế xe
tải, vận động viên thể dục, v.v...
(3) Ngã
lòng chẳng có việc gì để làm với chỉ số thông minh của một người. Nếu có cái gì
đó, thì người có chỉ số thông minh cao lại càng dễ mắc phải ngã lòng hơn.
(4) Tuổi
tác không phải là một công sự bảo vệ chống lại nó được đâu. Nó tấn công kẻ trẻ
người già như nhau. Một thập niên tuổi tác có sự mẫn cảm đặc biệt riêng với sự
ngã lòng. Điều nầy thường được nói tới như các chu kỳ của sự ngã lòng vậy.
(5) Ngã
lòng sắp xếp từ những dao động nhẹ (hết thảy chúng ta sẽ đối diện với)
đến chứng rối loạn tâm thần nặng.
(6) Dĩ
nhiên là ngã lòng có những nguyên nhân về thuộc thể. Thiếu ngủ, chế độ ăn uống
không thích ứng, thiếu vitamin, kiệt sức nằm giữa các nguyên nhân đơn giản
nhất. Ngã lòng cũng có thể do nhiều việc khác gây ra như ma túy, đường trong
máu xuống thấp, rối loạn tuyến, dị ứng thuốc, bướu não, và mất cân đối hoá
chất.
(7) Tuy
nhiên, một trong những nguyên nhân thông thường nhất, là lãnh vực thuộc linh,
lý trí, và tình cảm. Điều nầy cũng tác động phần thân thể (Châm ngôn 14:30;
17:22). Nói cách khác, trong khi có các nguyên nhân thuộc thể, và các
nguyên nhân nầy phải được kiểm chứng, các nguyên nhân thông thường nhất là
những nguyên nhân về mặt thuộc linh. Một số nguyên nhân ấy là:
· Chán
ngán hay thất bại. Chúng ta có khuynh hướng bị ngã lòng khi mọi điều
chúng ta trông mong không được thoả mãn. Timothy LaHaye nói: “về hàng trăm trường hợp ngã lòng mà tôi đã xét qua,
không có ngoại lệ, chúng đã bắt đầu với một sự chán ngán hay một kinh nghiệm
trong đó cá nhân ấy không được hài lòng”. Người ta có khuynh hướng
bị ngã lòng khi họ thấy ngao ngán cái vẻ bề ngoài của họ, vẻ bề ngoài của người
khác, hay khi việc chi đó mà họ trông đợi đã không thành sự thực.
· Một
khái niệm phi Kinh thánh. Khi suy nghĩ không đúng về bản thân mình có thể trở
thành một sự chán nản rất kinh khủng. Điều nầy bao gồm cả việc thất vọng nơi
bản thân mình, có thể là kết quả của một sự tự tưởng tượng không đúng về chúng
ta là ai trong Đấng Christ. Điều nầy cũng là kết quả của những điều trông mong
giả dối và phi thực tế hay tội lỗi không giải quyết được, có thực hay không có
thực. Nói cách khác, việc tìm kiếm hạnh phúc, sự an ninh và ý nghĩa từ sự thành
công hay bề ngoài của chúng ta thay vì từ nơi Chúa là một sự ngao ngán thực sự
– một nguyên nhân lớn cho sự ngã lòng hay chán nản.
· Thèm
khát. Đây là ao ước không đúng về nhiều việc – địa vị, quyền lực,
danh tiếng, của cải, đặc ân, v.v..., trong sự tin tưởng rằng chúng sẽ làm thoả
mãn mọi nhu cần của chúng ta, rằng chúng sẽ cung ứng cho chúng ta hạnh phúc hay
sự an ninh. Khi những điều nầy không làm thoả mãn mọi nhu cần của chúng ta (và
chúng sẽ không làm thoả mãn) sự ngã lòng liền bước vào ngay.
· Bị
người khác chối bỏ. Hết thảy chúng ta đều có một nhu
cầu cơ bản gồm ba chân kiềng như sau – sự tiếp nhận, sự tùy thuộc, và thu nhập.
Khi bất kỳ một trong ba thứ nầy chịu khổ, nó sẽ gây ra sự ngã lòng. Tuy nhiên,
một lần nữa, nguyên nhân gốc là chúng ta không tìm được ba chân kiềng tình cảm
nầy và sự ổn định về mặt lý trí trong bảng đánh giá và những lời tuyên bố của
Đức Chúa Trời về đời sống của chúng ta. Trong Đấng Christ, chúng ta có sự tiếp
nhận. Là con cái của Đức Chúa Trời, chúng ta thuộc về gia đình của Đức Chúa
Trời và chúng ta có khả năng Ngài ban cho chúng ta để sống đời sống Cơ đốc .
Êli đã
kinh nghiệm một sự đắc thắng to lớn trên Núi Cạtmên với mục tiêu lâu nay đã
được hoàn thành. Đức Giêhôva đã minh chứng Ngài là Đức Chúa Trời chơn thật, dân
sự đã thờ lạy Giêhôva là Đức Chúa Trời chơn thật, và các tiên tri Baanh đã bị
giết chết. Thế nhưng đây cũng là thời điểm rất nguy hiểm; một thời điểm mà bất
kỳ ai cũng có thể bị đánh hạ. Êli đã dùng hết năng lực mình – cả thuộc thể lẫn
thuộc linh. Thực sự đây là một kinh nghiệm trên đỉnh núi, nhưng bây giờ ông cần
phải thấy rõ đồng trũng luôn luôn nối theo sau.
Không bao
lâu sau đó Giêsabên đã nghe thuật lại về sự đắc thắng của Êli, bà ta bèn gửi
lời đe doạ của mình đến và mọi sự trông mong của ông về cơn phấn hưng và đổi
mới đã bị ném vỡ thành từng mãnh vụn
giống như cái tách của người Trung hoa đang nằm trên sàn nhà bằng gạch kia. Cảm
thấy thất vọng, Êli đã thôi không nhướng mắt mình nhìn vào Chúa nữa, ông trở
nên e sợ, rồi bỏ chạy để cứu lấy mạng mình xuống tận Bêe-Sêba rồi kế đó vào sâu
trong sa mạc. Ông đã sống một mình, đã bỏ tên đầy tớ lại sau lưng. Ông rất mệt
mỏi, kiệt sức, và trong đồng vắng một mình không đồ ăn không thức uống. Tất
nhiên, ông không ở một mình vì Chúa đã có mặt ở đó rồi, nhưng ông vẫn cảm thấy
hoàn toàn cô độc, vô dụng, tổn thương, thất bại, và ông đã không suy tưởng với
quan điểm của Ngôi Lời.
Trong một
thể trạng như thế, chúng ta sẽ làm gì? Chúng ta tỏ ra hờ hững và không còn có
đức tin nữa. Chúng ta tìm lối thoát thân, cảm thấy đau buồn trong lòng và suy
nghĩ rất vô lý (nói theo Kinh thánh). Chúng ta đánh mất nhận thức của
mình. Hoàn cảnh biến thành một hòn núi và Đức Giêhôva trước mặt chúng ta giống
như một ngọn đồi nhỏ. Chúng ta thôi không vui hưởng cuộc sống nữa, chúng ta
quên phứt mọi mục tiêu của mình, mất lý tưởng, rồi lui đi khỏi Đức Chúa Trời và
dân sự – là những người mà chúng ta có cần hơn hết. Với điều nầy trong trí,
chúng ta hãy lưu ý một vài nguyên nhân trong sự ngã lòng hay ngao ngán của Êli:
Lý
do về mặt tâm lý: Nói chung có một sự hạ thấp tự nhiên sau lần đắc
thắng và sự thành tựu của một mục tiêu hay một phần việc lớn. Những buổi tối
Chúa nhật và Thứ hai thường là kinh khủng đối với tôi vì sự hạ thấp theo sau
tình cảm cao độ của ngày Chúa nhật.
Lý
do về mặt thuộc thể: Bạn có từng chú ý thấy thể nào sự ngã lòng, sự gắt
gỏng, và ngao ngán mau xảy tới khi bạn bị kiệt sức không? Êli về mặt thuộc thể
và về mặt tình cảm đã không còn nữa kể từ kinh nghiệm của Núi Cạtmên, ông bỏ
chạy trốn tránh Giêsabên, và, thêm vào mọi sự ấy, là cuộc trốn chạy vào sâu
trong sa mạc. Khi suy nghĩ chừng ấy thôi, tôi đã thấy mệt mỏi lắm rồi! Khi thân
thể chúng ta mệt mỏi, chúng ta không thể suy nghĩ và đáp ứng lại như khi chúng
ta bình thường được. Trong tình trạng kiệt sức của Êli, ông đã cầu nguyện: “Ôi Đức
Giêhôva! đã đủ rồi. Hãy cất lấy mạng sống tôi”. Thay vì
thế, Đức Giêhôva giàu lòng yêu thương đã sai một thiên sứ đến cho ông ăn uống
và bổ sức cho ông. Có một nguyên tắc ở đây: nghỉ ngơi thích ứng, ăn uống điều
độ, và luyện tập là điều cốt yếu phải nắm lấy với sự ngã lòng.
Các lý do về mặt thuộc
linh:
(1)
Ngã lòng, hay không trao mọi điều lo lắng cho Chúa. Êli đang
mong đợi sự sửa đổi và cơn phấn hưng, thay vì thế ông đã kinh nghiệm sự chối bỏ
và một lời đe doạ nghịch lại sinh mạng của ông. Ông đã thất bại không nhìn biết
Đức Chúa Trời đang hành động bất chấp có việc gì đang xảy đến cho ông. Về sau
trong phần cuối chương, Đức Chúa Trời minh hoạ điều nầy với vị tiên tri.
(2)
Giận dữ và tổn thương mau dẫn tới chỗ tự thương hại. Ông đã
giận dữ đối với mọi người kể cả bản thân ông và Đức Giêhôva. Dân chúng chẳng
quan tâm. Ông đã thất bại. Đức Chúa Trời để cho ông bị hạ thấp, và không một
người nào dám đứng với ông trong cuộc chiến. Ông chỉ có một thân một mình.
Nhưng khi những tổn thương của chúng ta trở thành giận dữ và thay chỗ cho yêu
thương và nhịn nhục, chúng ta mau đánh mất ý thức rồi bắt đầu tưởng tượng ra
những việc chỉ làm tăng thêm những cảm xúc tồi tệ và làm tăng thêm sự ngao ngán
của mình mà thôi.
(3)
Suy nghĩ không đúng về bản thân mình. Chúng ta thấy rõ điều nầy khi xem
qua 19.4, 10, và 14. Có sự suy nghĩ cho rằng ông không còn cần thiết và không
đáng kể với Đức Chúa Trời nữa, chỉ một mình Ngài còn ở lại với Êli. Vì vậy, đột
nhiên mọi sự đã trở ra vô vọng. Hãy chú ý ba điều: (a) Ông bị tầm quan trọng
của chính mình chiếm hữu, như thấy có qua lời nói của ông: “Tôi đã rất nóng nảy sốt sắng vì Giêhôva
Đức Chúa Trời vạn quân; vì dân Ysơraên đã bội giao ước Ngài. . .”.
Đây là sự thật về mặt cơ bản, thế nhưng chỉ nhắm vào đây đã khiến cho ông quên
đi hay không biết tới các nguyên tắc quan trọng khác trong Ngôi Lời. (b) Ông
bắt đầu suy nghĩ về bản thân mình cùng chức vụ là không còn cần thiết cho lý
tưởng của Chúa nữa. Chúng ta nhìn thấy điều nầy qua lời lẽ của ông: “vì dân Ysơraên
đã bội giao ước Ngài . . . chỉ một mình tôi còn lại”,
nghĩa là., không còn một ai khác giữ lấy lý tưởng của Ngài nữa, Đức Chúa
Trời ơi! Ông vốn không biết quyền tể trị độc lập của Đức Chúa Trời và lẽ đạo
nói về số dân sót. Đức Chúa Trời luôn luôn có một số dân sót (Êsai 1:9).
Mặc dù Chúa sử dụng những cá nhân làm công cụ cho Ngài, Ngài không hề nương vào
một ai cả. (c) Sau cùng, ông tự thấy mình là một thất bại tuyệt đối, là vô giá
trị, chẳng khác chi hơn các tổ phụ của mình, họ đã để cho xứ sở rơi vào tình
trạng nầy. Nói cách khác, ông đang tìm kiếm ý nghĩa, giá trị của mình trong
cuộc sống, từ sự thành công của ông theo các kết quả bề ngoài.
Tất cả “lối suy tưởng tồi tệ” nầy đã làm cho ông mù
quáng không nhìn thấy Chúa cùng các nguyên tắc của Kinh thánh. Ông không còn
trông thấy các nguyên tắc nầy: (a) Mặc dù chúng ta là những người lính trong
đoàn quân của Đức Chúa Trời, cuộc chiến là cuộc chiến của Chúa (I Samuên
17:14). (b) Trong khi chúng ta là những nhân sự cùng làm việc với Chúa, một
đàng thì gieo, một đàng thì tưới nước, chỉ một mình Chúa làm cho lớn lên (I
Côrinhtô 3:5-9), và Ngài làm thế ở những cấp độ khác biệt nhau (Mathiơ
13.24), và theo thì thuận tiện của Ngài (Truyền đạo 3:1; Galati 6:9). (c) Chúa
làm cho lời Ngài được vinh hiển khi Ngài thấy thích ứng, và đôi khi lời ấy trở
thành cơ sở cho sự phán xét của Ngài thay vì phước hạnh (Êsai 55:11; 6:9-11).
Một trong
những lý do cho sự ngã lòng là thiếu tiến bộ rõ ràng, tuy nhiên tiến bộ không
luôn luôn rõ ràng đặc biệt trong những vấn đề thuộc linh, ít nhất không phải
cho chúng ta.
Cây tre
Trung quốc tuyệt đối không làm gì hết – hay dường như thế – trong bốn năm đầu
tiên. Thế rồi đột nhiên, có khi trong suốt năm thứ năm, nó đâm chồi thẳng lên
90 feet trong 60 ngày. Bạn sẽ nói cây tre lớn lên trong 6 tuần hay trong 5 năm?
Phải đấy, đời sống và chức vụ của chúng ta thường giống như cây tre đó vậy. Đôi
khi chúng ta nổ lực đâm chồi, nổ lực đâm chồi, và nổ lực đâm chồi
. . . và dường như không có gì xảy ra. Nhưng nếu bạn làm theo những
việc đáng phải làm, bạn sẽ nhận lãnh các phần thưởng của mọi nổ lực của bạn.
Hãy so
sánh I Côrinhtô 15:58 và Galati
6:9: “Chớ
mệt nhọc về sự làm lành, vì nếu chúng ta không trễ nải, thì đến kỳ chúng ta sẽ
gặt”. Hết thảy chúng ta đều tìm kiếm ý nghĩa, giá trị của chúng
ta trong Chúa và trong ân sũng của Ngài. Chúng ta cần phải biết chúng ta được
trọn vẹn trong Đấng Christ và được ban cho các ân tứ để hầu việc Ngài (Côlôse
2:10; Rôma 12:3…).
Tất nhiên,
Êli không cô độc đâu! Đức Giêhôva đã có mặt ở đó và thậm chí đã sai thiên sứ
Ngài đến phục vụ ông. Không những Chúa là toàn tại, mà thật là yên ủi dường bao
khi biết Ngài đã hứa không bao giờ quên cũng không bao giờ lìa bỏ những người
tin, vô luận chúng ta đối diện với điều gì (Thi thiên 139; Hêbơrơ 13:5-6).
Ông cũng không phải cô độc theo quan điểm của con người. Đức Chúa Trời đã có
7.000 người chưa hề quì gối trước mặt Baanh.
Hãy lưu ý
xem Đức Giêhôva đã nắm bắt được sự ngã lòng của Êli:
(1) Trước
khi Ngài xử lý với tình trạng thuộc linh của Êli, Ngài đã bổ sức lại cho Êli về
mặt thuộc thể bằng sự nghỉ ngơi và ăn uống.
(2) Kế đó
Ngài khiến cho Êli phải đối diện với tình trạng thực của mình, là nan đề thực.
Nắm lấy chỗ đứng của một nhà tư vấn, Đức Giêhôva đã hai lần hỏi Êli: “ngươi ở đây
làm chi?” Nói cách khác, hãy ăn
uống đi, rồi suy nghĩ xem ngươi sẽ làm gì ở đây!?! (các câu 9 và 13).
(3) Đức
Chúa Trời đã phán với ông theo cách riêng ở các câu 9, 12, 13, và 15. Điều nầy
minh hoạ nhu cần phải sống theo Ngôi Lời ngay chỗ chúng ta nghe tiếng Chúa (nghe
giọng nói êm dịu nhỏ nhẹ của Ngài), hãy nhìn xem Ngài, và áp dụng lẽ thật.
Chúng ta sẽ nghiên cứu vấn đề nầy chi tiết hơn sau nầy.
(4) Ngài
khiến cho Êli ra năng động và nắm lấy chức vụ một lần nữa. Hãy chú ý câu: “Hãy bắt con
đường . . .” trong câu 15. Khi thấy nãn lòng,
ngao ngán, không nghỉ ngơi cần thiết, đừng nhượng bộ sự cám dỗ mà ủ rũ và không
làm gì hết. Không làm chi hết chỉ tăng thêm lực lượng cho sự ngã lòng mà thôi.
Cũng dấu hiệu ấy, đừng bao giờ sử dụng sự hoạt động mà gây mê cho nỗi đau khổ.
Hãy dâng nó cho Chúa. Hãy nghỉ ngơi, thoải mái, và ở một mình với Chúa cần sự
cân đối khi bị lôi cuốn vào việc làm và chức vụ, nhưng hãy luôn luôn tỏ ra tinh
thần đức tin, chớ không phải chỉ có hoạt động mà thôi.
(5) Đức
Chúa Trời đã cung ứng cho Êli một người bạn đồng hành. Ngài ra lịnh cho người
tìm gặp Êli. Êli tự mình ra sức làm thật nhiều. Ông đã học biết phải chia sẻ
gánh nặng công việc với nhiều người khác. Cuối cùng, có nhiều người khác có khả
năng san sẻ gánh nặng của chúng ta và thậm chí chiếm lấy chỗ đứng của chúng ta
nữa.
PHẦN KẾT LUẬN:
Sự ngã
lòng, như chúng ta đã bàn bạc ở đây, không phải là thứ chúng ta nắm bắt được
như một con virus, mà đây là thứ không thể tránh né được. Chúng ta khoác nó vào
thân mình do suy nghĩ không đúng và chọn lựa sai lầm, và vì một lý do nào đó,
chúng ta vô tình chọn lấy ngã lòng. Đây là một sự chọn lựa mà chúng ta không
muốn đưa ra, nhưng chúng ta đã tạo ra nó không cứ cách nào đó. Tại sao chúng ta
lại chọn sự ngã lòng chứ? Vì đây là một trong các chiến lược của chúng ta để
đương đầu với sự thất vọng của chúng ta. Ngã lòng đơn giản chỉ là một giải pháp
nhất thời do con người tạo ra đối phó với nỗi đau khổ của chúng ta. Thế gian
cung ứng cho nhiều giải pháp để tìm sự khuây khoả, nhưng chúng không những là
tạm bợ và nông cạn, mà chúng còn dẫn chúng ta xa khỏi các giải pháp của Đức
Chúa Trời, luôn luôn là như vậy. Điều nầy biến chúng thành ra một phần trong
chương trình dối gạt của Satan. Người ta mong muốn cảm thấy khá hơn và dễ chịu
hơn. Một vài đường lối đương đầu của chúng ta có thể là hợp lý, nhưng nếu chúng
không dẫn dắt chúng ta tìm gặp và nhìn biết sự đầy đủ của Đức Chúa Trời, chúng
trở thành một phần của nan đề hơn là giải pháp. Như sách Châm ngôn dạy dỗ chúng
ta: “có một
con đường coi dường chánh đáng cho loài người, nhưng đến cuối cùng nó thành ra
nẻo của sự chết” (Châm ngôn 14:12).
Chúng ta
phải lượng tính cái giá của sự ngã lòng. Ngã lòng buộc chúng ta phải trả giá
đắt trong các giới hạn của kết quả, của sự hiệu quả, của hạnh phúc chúng ta về
mặt thuộc thể, về lý trí, về tình cảm, về thuộc linh và về mặt xã hội. Ngã lòng
tác động vào chúng ta ở từng phương diện – tại gia đình, ở sở làm, trong cộng
đồng, và trong Hội thánh của chúng ta và trong công việc của Chúa nữa.
Bài học
nầy xử lý nhiều đến đề tài ngã lòng. Trong bài học kế, chúng ta sẽ xem chi tiết
hơn ở các câu 5-19.
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét