Thứ Hai, 24 tháng 3, 2014

Bài 30: II Các Vua 2: "XE NGỰA LỮA"


XE NGỰA LỬA

– II Các Vua 2

            Bạn sẽ làm gì một khi bạn biết mình sẽ qua đời hôm nay?

            Sẽ ra sao nếu bạn biết chắc rằng hôm nay sẽ là ngày cuối cùng của bạn ở trên đất? Giả sử bạn còn sống không đầy 24 tiếng đồng hồ nữa. Bạn sẽ làm gì? Bạn sẽ đi đâu? Bạn sử dụng những giờ phút sau cùng của bạn trên hành tinh địa cầu nầy như thế nào? Nếu bạn biết mình sẽ qua đời hôm nay, bạn sẽ làm gì đây? Bạn sẽ đi đâu? Bạn sẽ ở tại nơi mà bạn đang ở trong lúc bây giờ, hay bạn sẽ lên phi cơ rồi đến gặp ai đó mà bạn yêu thương chăng? Bạn sẽ nhấc máy điện thoại lên rồi gọi đến một vài người? Nếu nhấc máy lên, thì bạn sẽ gọi cho ai chứ? Bạn sẽ nói gì?
            Thật lấy làm tốt khi suy nghĩ về mấy câu hỏi đại loại như thế nầy từng hồi từng lúc. Martin Luther nói rằng chúng ta nên sống từng ngày với ngày qua đời luôn đứng trước mặt chúng ta, giống như tấm biển quảng cáo mà chúng ta nhìn thấy ở khắp mọi nơi khi đến ngã rẻ con đường. Trong quyển Bảy Bí Quyết Của Hạng Người Thành Đạt, Steven Covey nói về việc sống với nhận định về ngày cuối cùng. Đấy là nguyên tắc quan trọng trong Kinh thánh – sống hôm nay giống như thể đấy là ngày sau cùng của bạn vậy. Jim Elliott (tính đến tháng nầy thì ông đã qua đời đúng 50 năm) đã nói ông muốn sống khi đến lúc chết, sẽ chẳng có gì khác phải làm trừ ra chết mà thôi.
            Chúng ta hãy xem qua câu hỏi một lần nữa đi. Giả sử bạn chỉ có 30 giây để sống. Có lẽ bạn bị thương trong một tai nạn ô tô, hay có lẽ bạn sắp qua đời trong một bịnh viện và bạn biết sự cuối cùng đã gần rồi. Gia đình của bạn đang tụ tập lại ở chung quanh bạn, họ đang chờ đợi lời lẽ sau cùng của bạn. Giả sử bạn có 30 giây, và rồi bạn sẽ qua đời. Bạn sẽ nói gì đây? Bạn sẽ tóm tắt lại mọi điều chi là quan trọng đối với bạn? Tôi suy nghĩ về việc nầy trong một lúc rồi tự hỏi mình sẽ nói gì với ba đứa con trai mình đây. Tôi chỉ phải đưa ra một câu trả lời ngay thôi. Trong 30 giây sau cùng đó, tôi sẽ nói bốn việc với các con trai tôi:
1. Hãy chăm sóc mẹ các con
2. Hãy yêu thương nhau
3. Hãy cưới một thiếu nữ Cơ đốc  làm vợ
4. Hãy hầu việc Đức Chúa Jêsus Christ cho đến đời đời
            Bấy nhiêu đó thôi. Hãy chăm sóc mẹ các con, hãy yêu thương nhau, hãy cưới thiếu nữ Cơ đốc làm vợ, và hãy hầu việc Đức Chúa Jêsus Christ cho đến đời đời. Nếu các con trai tôi làm theo y như thế, khi ấy tôi sẽ qua đời như một người được phước vậy. Bấy nhiêu đủ tóm tắt mọi sự mà tôi đã ra sức để sống còn.
            Trong các thế hệ đi trước, Cơ đốc nhân đã nói về sự chết nhiều hơn là chúng ta nói trong lúc bây giờ. Người theo Thanh giáo, họ thực sự viết ra các quyển sách để giúp đỡ nhau học biết cách thức phải chết. Chết cũng được xem là một phẩm hạnh Cơ đốc nữa đấy.
            Tôi có một người bạn đã phục vụ quân đội ở Việt nam. Ông ta bị quân Bắc Việt bắt, bị bắn nơi chân, rồi trốn thoát bằng cách bò khỏi trại tù trên hai bàn tay và hai đầu gối. Ông ta biết mọi sự về chiến tranh vì ông ta đã nhìn thấy nhiều người chết trên chiến trường. Không lâu sau đó, ông nói cho tôi biết người Mỹ rất sợ chết. Ông không nói về những người nam người nữ dũng cảm phục vụ trong các lực lượng vũ trang. Họ phó mạng sống của họ trên chiến tuyến từng ngày một, và họ làm thế mà không đòi hỏi sự cảm thông. Họ làm thế vì đấy là công việc của họ, và vì họ tin nước Mỹ đang đứng mũi chịu sào vì điều gì. Đấy không phải là điều mà bạn tôi muốn nói tới. Ông ta nói rằng những người Mỹ bình thường đều sợ chết. Ông ta nói cho tôi biết điều nầy cách đây ba năm, và ông ta nói lại sự việc nầy sau cuộc đánh bom ở Luân đôn vào mùa hè qua. Ông ta nói sự khác biệt giữa chúng ta và những tên khủng bố, ấy là chúng ta sợ chết còn chúng thì không. Chúng ta đang ngồi trên chiếc ghế ở công viên trong trung tâm một thành phố xinh đẹp vào một ngày mùa hè dễ thương. “Hãy nhìn xem mọi sự chúng ta đã có kìa”. Tôi nhìn thấy những đôi vợ chồng hạnh phúc tay trong tay với nhau và lớp người trẻ đang nằm dài trên thảm cỏ. “Chúng ta nghĩ chúng ta đang sống rồi trên thiên đàng. Chúng ta nghĩ chúng ta đã nhận lãnh mọi thứ tốt nhứt khả thi. Tại sao có người muốn rời bỏ thế giới nầy chứ?” Hãy so sánh với chỗ mà những tên khủng bố kia xuất thân xem. Không có gì phải ngạc nhiên khi họ không sợ chết. Những người Mỹ thì sợ chết giống như là một kết quả của sự thịnh vượng về mặt vật chất của chúng ta.
            Đó là phần đánh giá khá chính xác của toàn xã hội chúng ta. Và trong một số cách thức thì cũng thực như thế cho Hội thánh. Ngay cả bên trong hội thánh có đôi chút câu nệ khi nói tới sự chết. Bạn không bao giờ nói với bạn bè của mình: “Nầy, tôi mới nhận được cái bánh pizza. Bạn mang theo Coke đi. Hãy qua nhà của tôi, chúng ta sẽ nói về buổi tối thứ Sáu chết chóc kia”. Bạn sẽ không nói như thế đâu, vì nếu bạn nói, chẳng một ai chịu qua nhà của bạn cả. Không một người nào muốn nói về sự chết hết.
            Nhưng vào thời buổi xa xưa, khi cuộc sống khó nhọc hơn, người ta suy nghĩ nhiều về sự chết. John Wesley, nhà sáng lập phong trào Giám lý, thường nói về dân tộc của ông: “Dân tộc chúng ta đang dãy chết”.
            Vì thế, bạn sẽ làm gì nếu hôm nay là ngày sau cùng của bạn trên đất? Bạn sẽ đi đâu? Bạn sẽ làm gì? Bạn sẽ nói chuyện với ai? Và bạn sẽ nói gì đây? 

I. Ngày sau cùng của Êli

            Và điều đó đưa chúng ta đến với chương sau cùng trong câu chuyện của Êli. Từ II Các Vua 2, chúng ta học viết cách thức người của Đức Chúa Trời lìa bỏ trần gian nầy. Êli không chết, nhưng cách thức ông sử dụng ngày sau cùng của mình là một sứ điệp cho chúng ta cả thảy.
            Chúng ta đã khởi sự chuyến hành trình với Êli trên vùng đồi núi. Từ vùng đồi núi, chúng ta đến trước mặt nhà vua. Tiếp đến, chúng ta đi với Êli đến khe suối, rồi sau khe suối chúng ta đến với người đàn bà góa ở Sarépta. Tại đó, chúng ta ở lại với Êli trong khi các phép lạ liên tục diễn ra. Từ đó chúng ta trèo lên Núi Cạtmên với Êli, nơi ông đối mặt với các tiên tri thần Baanh. Và sau khi ông rời Núi Cạtmên, chúng ta đi theo ông vào trong sa mạc và rồi vào trong một hang động của Núi Hôrếp. Chúng ta quan sát khi ông kêu gọi Êlisê trong một tư thế kỳ quặc. Tiếp đến chúng ta cùng đi với Êli khi ông đứng trước mặt Vua Achaxia. Giờ đây, chúng ta đến với chỗ cua sau cùng trên con đường, phần cuối cùng trong câu chuyện sống động đáng kinh ngạc của ông.
            Và vào ngày sau cùng đời sống trần gian của Êli, ông đã có nhiều chuyến đi. Ông khởi hành ở Samari rồi đi đến Ghinh ganh. Từ Ghinh ganh, ông đến tại Bêtên. Từ Bêtên, ông đi xuống thành Giêricô. Từ Giêricô, ông qua bờ Đông của sông Giôđanh. Chuyến đi sau cùng của ông đưa ông trở về lại vùng đối núi đồi và hang động thời tuổi trẻ của ông. Sơn nhân của Đức Chúa Trời trở lại với vùng đồi núi mà ông xuất thân từ đó. Giữa vùng núi đồi lỡm chỡm đá và hẽm núi sâu, vị tiên tri sửa soạn để gặp gỡ Đức Giêhôva. Nương vào các con đường mà bạn đang bắt lấy, chúng có khoảng 55 dặm. Chừng đó là cả chuyến đi trong một ngày. Vì vậy, bất cứ điều chi khác bạn muốn nói, đừng nói Êli có ngoại lệ nhé. Rõ ràng, ông đang ở trong một khuôn khổ thật tuyệt vời. Đừng nói ông sẽ bị đưa về trời vì ông đã già yếu, mệt mõi và kiệt sức nhé, vì Êli vẫn có nhiều sức sống trong ngày sau cùng của ông. Cái điều dường như rõ nét đối với tôi, ấy là Đức Chúa Trời đã nói cho ông biết hôm nay sẽ là ngày ấy.
            Có phải bạn tin Đức Chúa Trời đôi khi ban cho con cái Ngài một ít thông báo cho rằng thiên đàng không xa lắm đâu, có phải không? Tôi tin. Tôi không nghĩ Ngài thông báo như thế trong từng trường hợp. Song tôi tưởng tượng, hầu hết chúng ta có thể kể một câu chuyện nói tới thánh đồ của Đức Chúa Trời là người có linh cảm rằng thiên đàng không xa xôi lắm. Chúng ta nghe nhiều câu chuyện kể về các thiên sứ ca hát, về ánh sáng rực rỡ, và việc hiện thấy sự vinh hiển của Đấng Christ. Trong khi tôi không nghĩ chúng ta đã cả tin và tin theo mọi sự người ta nói, tôi không nghĩ chúng ta sẽ làm giảm sút tất cả các câu chuyện nầy. Trước khi ông qua đời, Êtiên đã có một sự hiện thấy về thiên đàng (Công Vụ các Sứ Đồ 7:55-56). Tôi tin rằng đôi khi Đức Chúa Trời để cho chúng ta nghe được âm thanh của xe ngựa đang chạy chậm đến để đưa chúng ta về quê hương. Đức Chúa Trời trong ân điển của Ngài đôi lúc để cho con cái Ngài nhìn biết rằng ngày ấy đã đến.
            Vấn đề cũng rất rõ ràng ở chỗ Êlisê, là người hầu trẻ của ông, cũng nhìn biết đây là ngày sau cùng. Và rõ ràng là Đức Chúa Trời đã nói cho đoàn đông các vị tiên tri trong các thị trấn khác nhau biết nữa. Điều nầy giải thích lý do tại sao Êli sẽ làm mọi sự trong chuyến đi vào ngày sau cùng của mình. Rõ ràng là Êli đã xử lý thời gian của mình để gây dựng cho người khác. Trong từng thị trấn ở ba địa điểm như thế nầy, Êli đã dựng lên các chủng viện nhỏ ở địa phương, ở đó các vị tiên tri có thể được đào tạo để thi hành chức vụ. Họ yêu mến Êli và xem ông là thầy, tư vấn, anh hùng và bạn hữu của họ. Tại Ghinh ganh, Bêtên rồi Giêricô, ở mọi nơi ông đi đến trong ngày cuối cùng đó, ngôi trường của các tiên tri đã bị giải tán. Các vị tiên tri trẻ được đào tạo bởi những tiên tri cao tuổi đã bước ra để gặp người của Đức Chúa Trời khi ông thực hiện chuyến đi giã biệt. Không những Đức Chúa Trời đã nói cho Êli và Êlisê biết, mà Ngài còn nói cho các vị tiên tri khác trong Israel biết nữa: “Hôm nay, người của Đức Chúa Trời sẽ về lại quê hương”.
            Tôi nghĩ rằng Êli đã biết rõ hôm nay là ngày ấy. Tôi không nghĩ ông biết một cách chính xác khi nào hay ở đâu hoặc cách nào thì việc ấy xảy ra. Tôi không biết ông đã có bất kỳ ý niệm nào về việc được đem lên trời trong một cơn gió lốc hay không!?! Vì vậy, Êli giờ đây có Êlisê ở cùng ông. Khi ông đến tại Ghinh ganh, ông nói: “Hãy ở lại đây”. Còn Êlisê thì nói: “Không, tôi sẽ đi cùng ông”. Khi ông đến tại Bêtên, ông nói: “Hãy ở lại đây”. Êlisê đáp: “Không, tôi sẽ đi cùng ông”. Khi ông đến tại Giêricô, ông nói: “Hãy ở lại đây” “Không, tôi sẽ đi cùng ông”. Khi ông đến tại sông Giôđanh, ông nói: “Hãy ở lại đây” “Không, tôi sẽ đi cùng ông”. Đây là phần thử nghiệm về lòng trung thành và là thử nghiệm về tính kiên trì. Đây là cách nói của Êli với người của mình: “Ta sắp sửa lìa khỏi ngươi. Ngươi có biết không?” Còn Êlisê thì nói với thầy của mình: “Bất cứ đâu thầy đi, tôi sẽ đi. Tôi sẽ ở với thầy cho đến cuối cùng”. Đây đúng là một bức tranh thật cảm động nói tới một người già và một người trẻ tuổi hơn và phần thử nghiệm sau cùng về lòng trung thành.
            Vì vậy, ông đã sử dụng ngày sau cùng của mình với Êlisê, và ông sử dụng thì giờ của mình để chào tiếp và giã biệt các vị tiên tri trẻ, họ đang ngóng về ông như một vị anh hùng và là một bậc thầy. Chẳng có một chút e sợ nào ở đây hết. Êli không sợ hãi; Êlisê không sợ hãi. Chẳng có một ý thức nào về sợ hãi hay khiếp sợ, chỉ có một ý thức về việc được trọn vẹn trong đôi bàn tay của Đức Chúa Trời.

II. Lời lẽ sau cùng của Êli

            Khi họ đến tại sông Giôđanh, Êli lấy cái choàng của mình, quấn nó lại, rồi đập xuống nước. Dòng nước bèn chia ra, một lần nữa cho thấy thể nào cả Êli và Môise đều được đầy dẫy với Thần của Đức Chúa Trời. Ngay trước khi Êli lên trời, ông xây lại rồi nói với người bạn trẻ của mình: “Ta có thể làm chi cho ngươi? Trước khi ta đi, trước khi ta đi, ngươi có yêu cầu gì không?” Và Êlisê đáp: Nguyền xin thần của thầy cảm động tôi được bội phần (câu 9) [Trong bản Kinh thánh Anh ngữ, câu nầy ghi là: “Xin ban cho tôi một phần bằng hai thần của ông”]. Có người đã chỉ trích Êlisê về việc đưa ra lời yêu cầu như thế, song tôi nghĩ là họ đã sai lầm. Chắc chắn khi Êlisê yêu cầu một phần bằng hai thần của Êli, ông đang tỏ ra mọi tiềm năng trong đời sống  của ông.
            Bạn nhận ra điều chi đã đánh dấu một người vào thời điểm như thế nầy. Donald Trump bước vào rồi nói: “Ta sẽ làm gì cho ngươi đây?” Bạn đáp: “Xin cung ứng cho tôi chiếc xe cút kít chứa đầy tiền bạc của ông”. Ông ta sẽ không bỏ qua yêu cầu ấy, ông ta có rất nhiều tiền. Bạn sẽ nói với một người khác: “Hãy đưa cho tôi danh sách tiếp xúc của ông”. Bạn sẽ nói với một người khác nữa: “Xin trao cho tôi công việc làm ăn của ông” “Xin trao công ty của ông cho tôi” “Xin trao mạng lưới của ông cho tôi” “Hãy đưa cho tôi chiếc xe của ông” “Hãy trao ngôi nhà của ông cho tôi” “Hãy trao bộ quần áo của ông cho tôi” “Hãy trao thị trường chứng khoán của ông cho tôi” “Hãy trao bầy gia súc của ông cho tôi” “Hãy trao nông trại của ông cho tôi” “Hãy trao gia đình ông cho tôi” “Hãy trao những quyển sách của ông cho tôi”.
            Êlisê chỉ xin một phần bằng hai thần của Êli. Trong Cựu Ước, người con trưởng sẽ nhận một phần bằng hai tài sản của cha mình. Giờ đây, cụ thể thì Êlisê không phải là con trai của Êli theo phần xác, song ông là con thuộc linh của Êli. Vì vậy, ông đang hỏi xin trong vai trò người con trưởng về mặt thuộc linh: “Ồ, cha ơi, xin ban cho con những gì thuộc về con về mặt thuộc linh. Xin ban cho con một phần bằng hai thần của cha đi”, tại sao ông lại xin như thế chứ? Thời buổi ấy rất là khó nhọc trong xứ Israel, và chẳng bao lâu nữa mọi việc sẽ đâm tồi tệ hơn. Thay vì sẽ sáng sủa hơn trong thời của Êlisê, dân sự cứ tiếp tục tẻ tách ra khỏi Đức Chúa Trời. Êlisê vốn biết rõ để cho ông hầu việc Chúa trong những ngày tháng nhọc nhằn ở trước mặt, ông cần chính sự can đảm và chính quyết tâm và chính lòng ngoan cường mà thầy mình vốn có. Ông muốn chính tâm thần mà Êli đã có trên đỉnh Núi Cạtmên. Ông muốn chính tâm thần đã khiến cho Êli đến trước mặt vua Aháp ở chỗ đầu tiên. Ông muốn chính tâm thần mà Êli đã có khi ông đối diện với vua Achaxia. Ông muốn như thế, và ông biết rõ ông vốn cần tâm thần ấy. Đức Chúa Trời chúc phước cho Êlisê về việc nhận ra nhu cần trong đời sống của ông.
            Êli đáp lại Êlisê: “Ngươi cầu xin một sự khó” (câu 10). Đây là ơn mà chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể ban cho. Khi ấy, ông thêm một điều kiện rất quan trọng: Song nếu ngươi thấy ta lúc ta được cất lên khỏi ngươi, ắt sẽ được như lời bằng chẳng, thì không được (câu 10).
            Bây giờ, chúng ta đến với phần cuối của đời sống Êli ở trên đất: Hai người cứ vừa đi vừa nói với nhau, kìa, có một cái xe lửa và ngựa lửa (câu 11). Đấy là những hình ảnh có tính cách quân sự. Mấy con ngựa và chiếc xe là biểu tượng của chiến tranh. Êli là một chiến binh đánh trận cho Đức Chúa Trời. Đây là một dấu hiệu và là một biểu tượng cho thấy đã có một sự cuồng nộ chiến tranh trong tấm lòng của dân sự Israel. Nó có ý nói rằng một chiến binh sắp sửa về quê hương với Đức Chúa Trời. Đây là một dấu hiệu nói tới loại sự sống mà Êli đã nhắm tới. “Êli lên trời trong một cơn gió lốc (câu 11). Đời sống của Êli là một sinh hoạt giống như cơn gió lốc. Ông rất hăng hái,  năng động, kiên quyết, tự mình lăn xả vào cung điện của các vị vua bất kỉnh, thổi qua Israel giống như một trận cuồng phong đến từ Đức Chúa Trời. Ông rời trần gian giống như khi ông đã sống trên đó – trong một cơn gió lốc.
            Chúng ta có khuynh hướng nhắm vào chuyến đi đặc biệt ấy, nhưng câu 12 cho thấy nhiều vấn đề hơn. “Êlisê nhìn thấy”. Năm mươi vị tiên tri đã đi theo ở một khoảng xa xa. Họ đã nhìn thấy Êli và Êlisê cùng đi với nhau và thình lình Êli biến mất. Tôi nghĩ điều nầy có ý nói rằng mọi sự họ nom thấy là Êli biến mất. Họ chẳng có ý kiến gì về mọi điều đã xảy ra. Chỉ có Êlisê với đôi mắt mở ra nhìn thấy những con ngựa lửa cùng chiếc xe lửa mà thôi. Chỉ có Êlisê là người nhìn thấy thầy của mình được cất lên trong một cơn gió lốc đó.
            Êli đã nói: “Nếu ngươi thấy”. Có một loại nhìn thấy với đôi mắt, và có loại thấy với đôi mắt của tấm lòng. Đúng là khả thi với cái thấy 20/20 với đôi mắt bên ngoài và hoàn toàn mù lòa với đôi mắt bên trong. Bạn có thể sống tám mươi năm với cái thấy trọn vẹn và hoàn toàn bị mù với thực tại thuộc linh. Đấy là lý do tại sao Phaolô cầu nguyện trong Êphêsô 1:18 “soi sáng con mắt của lòng anh em”. Bạn có thể đến với Lớp Trường Chúa Nhật trọn cả đời mình, bạn có thể gia nhập một trường Cơ đốc hay vào Thần học viện, và con mắt lòng của bạn có thể bị đóng kín. Chỉ nếm trải các động lực thôi, điều đó không bảo đảm con mắt lòng của bạn sẽ được mở ra.

Thấy Đấng không thấy được

            Hêbơrơ 11:27 chứa một cụm từ giúp chúng ta hiểu rõ nguyên tắc nầy. Khi nói tới tình trạng Môise bằng lòng lìa bỏ mọi sự giàu có của Aicập để sống trong đồng vắng với chính dân tộc của ông, tác giả nói rằng ông “đứng vững như thấy Đấng không thấy được”. Đấy là một trong những câu nói đáng nhớ và rất rõ nét trong cả Kinh thánh. Nó cho thấy đây là một điều bất khả thi. Làm thế nào bạn “thấy” một thân vị không thấy được chứ? Nếu bạn có thể thấy, bạn không thể không thấy. Nhưng Đức Chúa Trời là Đấng không thấy được, thế mà Môise đã “thấy” Ngài. Sao chứ? Ba từ thôi. “Bởi đức tin”. Môise có đức tin và đức tin của ông đã khiến cho ông thấy được. Và ông đã thấy Đức Chúa Trời là Đấng không thấy được. Đức tin thấy điều chi là thực sự có ở đó mặc dầu nhiều người khác chẳng nhìn thấy chi hết. Đức tin tin điều chi là thực mặc dầu nhiều người khác chẳng tin điều đó. Bởi đức tin, chúng ta nhìn thấy thực tại, nghĩa là chúng ta nhìn qua bên kia thế giới ở chung quanh chúng ta. Nhưng ý niệm ấy dường như chẳng có gì là kỳ lạ hết. Rốt lại, bài thánh ca đáng yêu nhất trong thế gian (“Amazing Grace”) chứa dòng nầy: “Tôi đã hư mất bao ngày, lầm than trong nơi tội đầy, mà ơn Chúa thương xót  khoan nhân”.
            Bởi đức tin, chúng ta nhìn thấy điều mà người khác không thấy được. Bạn có từng nhìn vào hình ảnh 3D chứa những hình ảnh kín giấu không? Khi lần đầu tiên bạn nhìn vào hình ảnh ấy, mọi sự bạn nhìn thấy những đường sóng hay dấu chấm chấm hoặc có lẽ các ngôi sao hay những mẫu trái cây. Nhưng nếu bạn nhìn gần hơn hình ảnh đó, và nếu bạn tập trung ánh mắt rồi quay nghiêng đầu một chút, thình lình nó lộ ra cái đầu của Mozart hay một thiếu nữ đang nhảy múa hoặc một con chim thật lớn. Kể từ khi thị lực của tôi không hoàn hảo lắm, tôi có rắc rối với những hình ảnh 3D kia. Thường thì việc duy nhất tôi có thể thấy là một loạt đường sọc hoặc cái gì đó trông hao hao như cái đầu bắp cải. Trước nổi kinh ngạc của tôi, Marlene luôn luôn nhìn thấy hình ảnh “ẩn” kia. Nhưng chỉ vì tôi không thể thấy thì không có nghĩa là hình ảnh không có ở đó đâu. Sự việc giống như thể cái đầu của Mozart thình lình xuất hiện từ một chỗ nào đó vậy. Mọi sự đều có ở đó. Hình ảnh “ẩn” có ở đó dù tôi có nhìn thấy hay là không. Đột nhiên thì bạn nhìn thấy hình ảnh luôn luôn có ở đó. Cũng một thể ấy với đời sống  đức tin. “Thế giới ẩn” của thực tại đời đời có ở đó dù chúng ta nhìn thấy hay không nhìn thấy. Và bởi đức tin, chúng ta “thấy” thế giới ấy, mặc dù người khác trong thế gian không nhìn thấy.

Kinh nghiệm quyết định sự tin tưởng của chúng ta

            Nguyên tắc nầy có nhiều ứng dụng. Cách đây không lâu lắm, tôi có nghe một diễn giả nói rằng “kinh nghiệm quyết định sự tin tưởng của chúng ta”. Khi ấy, ông ứng dụng điều đó cho những kẻ chạy theo tôn giáo khác bằng cách nói rằng ông không lấy làm giận đạo Hồi hay đạo Phật hoặc Ấn giáo hay nhiều nhà thế tục mà chúng ta gặp gỡ mỗi ngày. Tại sao phải giận họ chứ? Nếu họ thực sự tin những gì họ xưng họ tin theo, sở dĩ như thế là vì họ đã có một kinh nghiệm quyết định cho sự họ tin. Cách đây nhiều năm, tôi đã học biết rằng “kinh nghiệm của bạn luôn luôn đánh bại lý thuyết của tôi”. Tôi không thể sử dụng cách lý luận để hủy diệt kinh nghiệm của bạn, ít nhất là không thể nếu nó thực sự nói tới điều chi đó quan trọng đối với bạn. Hết thảy chúng ta đều gắng sức tranh luận với người ta về Nước của Đức Chúa Trời và sự tranh luận đó chẳng có tác động chi hết. Bạn không thể thuyết phục được ai rằng Chúa Jêsus yêu thương họ bằng cách thề hay đe dọa họ hoặc cất cao giọng của mình trong giận dữ. Thay vì giận dữ với những người có tín điều khác biệt hiển nhiên, chúng ta nên cầu nguyện với Đức Chúa Trời xin Ngài ban cho họ một kinh nghiệm về lẽ thật. Chỉ khi ấy họ sẽ bị thuyết phục để tin theo một cách đặc biệt.
            Điều đó xảy ra khi tôi viết mấy lời nầy từ một căn hộ ở Bắc kinh, Trung hoa. Cách đây hai ngày, tôi giảng cho một nhóm nhỏ các cấp lãnh đạo Cơ đốc và giải đáp mọi thắc mắc của họ. Một phụ nữ muốn biết cách thức giúp cho người bạn của mình chưa nhìn biết Đấng Christ. Bà đã cố gắng và tìm cách giúp cho người bạn song dường như chẳng có kết quả chi hết. Tôi trình bày cho bà ấy ba điều. Thứ nhứt, giữ lấy người bạn của bà ấy. Bạn chẳng thể giúp được ai nếu bạn không trao đổi với họ. Thứ hai, hãy gieo ra “hột giống lẽ thật” trong cuộc trao đổi với người bạn đó. Đừng tranh luận và đừng ra sức thuyết phục người bạn ấy mà chi. Thứ ba, hãy cầu nguyện, cầu nguyện và cứ giữ lấy sự cầu nguyện vì chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể thực sự thay đổi tấm lòng. Lời lẽ của chúng ta có thể sâu sắc lắm, song Thánh Linh của Đức Chúa Trời mới có thể làm tan chảy tấm lòng chai cứng nhất. Và tôi yêu cầu bà ấy: “Đừng lấy làm giận nơi một người mù lòa vì họ không thể nhìn thấy màu xanh lá cây?” Không, bạn đừng lấy làm giận mà chi. Nếu bạn không thể nhìn thấy màu sắc đó, bạn không thể thấy được màu sắc đó. Nổi giận chỉ làm cho mọi sự ra tệ hại thêm mà thôi, chớ không khá hơn đâu. Một khi chính Satan là kẻ làm mù tâm trí của người tín đồ (II Côrinhtô 4:4), chúng ta phải cầu nguyện xin Đức Chúa Trời mở mắt của họ ra để nhìn thấy lẽ thật. Họ sẽ chẳng bao giờ chịu tin những gì mà họ không nhìn thấy, và họ sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy cho tới chừng nào con mắt lòng của họ được mở ra, và chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể làm được điều đó. Nhưng Đức Chúa Trời có thể làm sự ấy, và đấy là lý do tại sao chúng ta phải cầu nguyện, cầu nguyện và cứ giữ lấy sự cầu nguyện.
            Êli nói: “Ngươi có thể có quyền phép nếu ngươi thấy ta ra đi”. Không những ông nói nếu ngươi nhìn thấy ta bằng mắt thường, một khi Đức Chúa Trời ban cho ngươi cái thấy thuộc linh để hiểu, một khi Ngài mở con mắt lòng của ngươi ra.
            Làm sao tôi biết Đức Chúa Trời đáp trả cho lời cầu nguyện chứ? Không phải vì Êlisê làm cho sông Giôđanh rẻ ra với cái áo choàng của Êli. Tôi biết điều đó vì cớ câu chuyện kỳ diệu nầy đã xảy ra ở II Các Vua 6:8-17 khi Êlisê và tôi tớ của ông đang ở tại Đôthan và quân đội của Vua Aram đã hoàn toàn vây quanh họ. Đây là một tình huống rất vô vọng. Mặc dù người tôi tớ thấy vọng lắm, Êlisê bảo người đừng lo vì những người ở với chúng ta đông hơn những người ở với chúng nó (câu 16). Khi ấy Êlisê cầu nguyện: xin mở mắt kẻ tôi tớ tôi, để nó thấy được (câu 17). Khi mắt hắn được mở ra, gã tôi tớ mới nhìn thấy các đạo binh của Đức Chúa Trời đã dàn trận trong các đám mây bên trên đạo quân của người Aram. Có đôi mắt được mở ra để nhìn thấy thực tại thuộc linh thì đây là điều quan trọng nhất, để hiểu rõ thế giới nầy không phải là thế giới duy nhứt. Khi con mắt lòng được mở ra, bạn hiểu ngay rằng thế giới không thấy được là thế giới thực, thế giới ấy mới là vấn đề.

III. Di sản sau cùng Êli

            Thế là giờ đây một vị tiên tri được cất đi, còn một vị tiên tri bị để lại, cho chúng ta thấy rằng chiến trận còn tiếp diễn. Hội thánh vui mừng đắc thắng ở trên trời trong khi hội thánh còn chiến đấu trên đất đang tiếp tục đánh nhau.
            Êlisê đã nhìn thấy thực tại thuộc linh. Ông đã nhìn thấy phần phía sau của bối cảnh. Ở cuối câu chuyện, có ba việc đang xảy ra liên tiếp nhanh chóng:
Số 1: Ông nhìn thấy Êli rời đi.
Số 2: Ông nhặt lấy cái áo choàng.
Số 3: Ông lấy cái áo choàng đập lên sông Giôđanh rồi nói: “Giêhôva Đức Chúa Trời của Êli ở đâu?”
            Tại sao ông lại làm như thế chứ? Êlisê ở bên bờ phía Đông sông Giôđanh. Chức vụ của ông đặt ở bờ phía Tây. Giữa ông và sự kêu gọi thiêng liêng của ông đã tuôn tràn qua làn nước đầy bùn của sông Giôđanh. Ông phải qua sông để bước vào phần chỉ định của Đức Chúa Trời cho đời sống của ông. Chẳng có thời điểm nào tốt đẹp hơn hiện tại để nhận ra rằng Đức Chúa Trời ở cùng ông giống như Ngài đã ở cùng Êli.
            Bộ bạn không nghĩ cần phải lấy can đảm để cầm chiếc áo choàng lên rồi đập xuống sông Giôđanh chăng? Ông đã nhìn thấy Êli phân rẻ dòng sông, nhưng cũng cùng một việc ấy có xảy ra với ông chăng? Êli đã đi rồi, nhưng có phải Đức Chúa Trời của Êli cũng đi luôn không?
            Đấy luôn luôn là một thắc mắc rất lớn.
            Giêhôva Đức Chúa Trời của Luther ở đâu?
            Giêhôva Đức Chúa Trời của Calvin ở đâu?
            Giêhôva Đức Chúa Trời của Jonathan Edwards ở đâu?
            Giêhôva Đức Chúa Trời của Charles Haddon Spurgeon ở đâu?
            Giêhôva Đức Chúa Trời của J. Hudson Taylor ở đâu?
            Giêhôva Đức Chúa Trời của D. L. Moody ở đâu?
            Giêhôva Đức Chúa Trời của Billy Sunday ở đâu?
            Giêhôva Đức Chúa Trời của Jim Elliott ở đâu?
            Cần phải lấy đức tin để nắm lấy chiếc áo choàng kia rồi đập lên mặt nước, chớ không phải muốn biết điều chi sẽ xảy ra. Cần phải có lòng can đảm để làm việc đó. Việc đó là cần thiết. Êlisê đã làm như vậy.
            Ông đã làm như vậy.
            Điều đó không thể xảy ra trong khi Êli vẫn còn ở trên trần gian. Êli phải ra đi để Êlisê dấy lên. Tôi nghĩ thời buổi nầy là dành cho các con trai của tôi. Khi bài nầy được viết ra, chúng được 26, 24 và 21 tuổi rồi. Chẳng có một việc nào giống như đức tin chuyền tay được. Từng thế hệ phải khám phá quyền phép của Đức Chúa Trời cho chính mình. Josh, Mark và Nick không thể sống bằng đức tin của tôi được. Chúng phải tìm kiếm đức tin cho riêng mình.
            Josh phải tìm kiếm chính đức tin của nó.
            Mark phải tự mình nhìn thấy.
            Nick phải tiếp nhận đức tin đó cho bản thân nó.
            Êli phải ra đi để Êlisê nắm lấy chức vụ của ông. Cũng một thể ấy cho từng thế hệ. Các lãnh tụ dấy lên, lãnh đạo, đánh trận cho Đức Chúa Trời, và rồi đến giờ định, họ rời khỏi bối cảnh, để được thay thế bởi những người khác mà Đức Chúa Trời đã dấy họ lên.

Đức Chúa Trời đặt tên cho những kẻ kế tục của Ngài

            Giờ đây, chúng ta đến với ngã rẻ sau cùng của con đường. Êli đang ở trên trời và ông đang sống mạnh giỏi hôm nay. Hàng trăm năm sau, Đức Chúa Trời phán qua Malachi: Nầy, ta sẽ sai đấng tiên tri Ê-li đến cùng các ngươi trước ngày lớn và đáng sợ của Đức Giê-hô-va chưa đến (Malachi 4:5). Bốn trăm năm sau, Chúa Jêsus phán về Giăng Báptít: ấy là Ê-li, là đấng phải đến (Mathiơ 11:14). Ngài có ý nói rằng Giăng Báptít đã đến trong tinh thần và quyền phép của Êli (Luca 1:17). Rồi sau đó, Êli xuất hiện trên Núi Hóa Hình với Chúa Jêsus, Phierơ và Giăng (Mác 9:2-8). Như vậy thì ông hãy còn sống hôm nay.
            Vì thế, nếu hôm nay là ngày sau cùng của bạn, bạn sẽ sử dụng nó ra sao? Bạn sẽ làm gì? Đối với những ai nhìn biết Chúa, sự chết chẳng có gì phải sợ hãi. Thì giờ ngắn ngủi của chúng ta trên đất mau qua, rồi chúng ta bay mất đi. Chúng ta có mặt ở đây hôm nay rồi qua đi vào ngày mai. Đây là lời nói tuyệt vời sau cùng ra từ đời sống của Êli.
            Êli về trời.
            Êlisê cưu mang công việc của ông.
            Công việc của Đức Chúa Trời còn tiếp diễn.
            Công việc tiếp diễn vì Đức Chúa Trời hằng còn mãi luôn.
            Ngài đã có mặt ở đây trước khi chúng ta đến, và Ngài sẽ ở đây cho dù chúng ta đã qua đi rồi. Không một điều gì thuộc về Đức Chúa Trời bị hư mất đi khi người của Đức Chúa Trời qua đi. Khi Êli về trời, Đức Chúa Trời vẫn y như nguyên cũ. Khi Êlisê chết đi, Đức Chúa Trời vẫn y như nguyên cũ. Chúng ta sẽ nói khi người thân của chúng ta qua đời: “cái chết sẽ chẳng bao giờ y như thế đâu”. Và đấy là sự thực. Sự sống đối với chúng ta sẽ chẳng bao giờ là một với những người thân của chúng ta đã qua đời rồi. Nhưng Đức Chúa Trời của chúng ta đang ở trên trời; Ngài không thay đổi. Thế gian không quay tròn quanh bạn và tôi, và nó không nương vào sự hiện diện cá nhân của chúng ta.
            Thi thiên 100:5 cho chúng ta biết rằng sự thành tín của Đức Chúa Trời “còn đến đời đời”. Sát nghĩa câu nầy có ý nói rằng “từ thế hệ nầy sang thế hệ khác”. Xuất Êdíptô ký 20:6 cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời bày tỏ tình yêu của Ngài ra “ngàn đời” cho những ai yêu mến Ngài. Kể từ khi một thế hệ là 40 năm, điều nầy có ý nói tình yêu của Đức Chúa Trời kéo dài ít nhất 40.000 năm. Và kể từ khi lời hứa nầy được ban cho Môise tại Núi Sinai khoảng 3.500 năm trước, chúng ta có thể kết luận chắc chắn rằng tình yêu thành tín của Đức Chúa Trời sẽ tiếp tục ít nhất 36.500 năm nữa. Như vậy phải nói là, trong 3.500 năm chúng ta chưa đi đủ 10% chiều dài con đường yêu thương của Đức Chúa Trời. Nhưng chắc chắc đấy chưa hẳn là nghĩa đen đâu. Thực vậy, chưa hẳn đâu. Nhưng đấy cũng hoàn toàn là hình bóng nữa. Đấy là cách tỏ ra cho chúng ta thấy rằng tình yêu thương và sự thành tín của Đức Chúa Trời trổi hơn bất kỳ suy tưởng nào của con người. Giả sử chúng ta sắp hàng từ ông nội, cha, con, cháu, chắt trên một hàng dài. Thi thiên 100:5 cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời như thế nào với ông nội, Ngài sẽ như thế ấy với người làm cha! Ngài thế nào với người cha, Ngài cũng thế ấy với người làm con. Ngài thế nào với người làm con, Ngài cũng thế ấy với người làm cháu. Ngài thế nào với người làm cháu, Ngài cũng thế ấy với người chắt. Và cứ như thế trải qua các thế kỷ. Nhiều thế hệ đến rồi đi, hết thế hệ nầy đến thế hệ khác. Chỉ có Đức Chúa Trời mới y như nguyên cũ cho đến đời đời.
            Tôi rất vui sướng khi sự thành tín của Đức Chúa Trời chuyển đi cho các thế hệ. Vào thời điểm tôi 53 tuổi hướng tới … sao chứ? 55? 60? 75? Có thể là 80 hay thậm chí 90 tuổi, nếu Đức Chúa Trời chúc phước cho tôi được sống lâu. Nhưng tôi sẽ không sống cho đến đời đời được. Khi năm tháng dần qua, tôi thấy mình nhận ra thể nào sự sống của mình được gói ghém nơi ba đứa con của mình. Hôm qua, chúng ngồi ghế mẫu giáo, hôm nay hầu như chúng đã lớn khôn, và ngày mai chúng sẽ trở thành ông nội. Liệu Đức Chúa Trời sẽ chăm sóc cho chúng chăng? Còn con cháu của chúng thì sao? Và cháu chắt của chúng thì sao? Liệu Đức Chúa Trời sẽ ở đó vì chúng chăng? Câu trả lời là “yes” vì sự thành tín của Đức Chúa Trời không nương vào tôi mà nương vào bổn tánh của Đức Chúa Trời đang rải ra trên các thế hệ. Như vậy, tôi không phải sống mãi để biết chắc các con trai mình sẽ okay. Đức Chúa Trời sẽ thực hiện vấn đề đó. Sau khi tôi rời khỏi đất nầy, và thậm chí nếu mọi lời cầu xin của tôi chưa được nhậm, tôi có thể tin cậy Đức Chúa Trời quan phòng đến các con của tôi. Điều nầy đúng là một sự an ủi. Tôi có thể làm hết sức mình để giúp cho các con trai tôi khi tôi còn ở đây, và sau khi tôi lìa đời, sự thành tín của Đức Chúa Trời sẽ tiếp tục cho chúng và cho con cháu của chúng nữa, và thậm chí cho chắt chít của chúng nữa.
            Êli về trời.
            Êlisê nhặt lấy chiếc áo choàng rồi thi hành công việc của mình.
            Đức Chúa Trời đặt tên của kẻ kế tục Ngài.
            Giêhôva Đức Chúa Trời của Êli cũng là Giêhôva Đức Chúa Trời của Êlisê.
            Chúng ta đến rồi đi, nhưng Đức Chúa Trời của chúng ta rải ra trên các thế hệ.
            Giêhôva Đức Chúa Trời của Êli ở đâu? Tôi đã đem các tin tức tốt lành đến cho các bạn. Ngài vẫn hiện diện ở đây. Lời lẽ sau cùng ra từ miệng của Êli là: Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên hằng sống (I Các Vua 17:1). Giêhôva Đức Chúa Trời của Êli là Đức Chúa Trời của chúng ta hôm nay.
            Vì vậy, tôi để lại cho bạn với thắc mắc mà tôi đã khởi sự với. Giêhôva Đức Chúa Trời của Êli ở đâu? Ngãi vẫn hiện diện ở đây. Đâu là những Êli của Giêhôva Đức Chúa Trời trong chính hội chúng của chúng ta?
            Lạy Cha, chúng con cảm tạ Ngài vì niềm vui mạo hiểm với một con người cao trọng như vậy. Con cảm tạ Ngài vì anh chị em con là những người đã đọc qua mấy lời nầy. Còn cầu nguyện rằng Ngài sẽ tạo ra trong chúng con những người có đức tin như Êli trong cuộc sống của thời buổi nầy. Xin khiến cho chúng con được mạnh mẽ và dạn dĩ để rao giảng và đứng vững cho Ngài, cho Giêhôva Đức Chúa Trời của Êli vẫn hằng sống hôm nay. Chúng con cầu nguyện trong danh của Chúa Jêsus. Amen.






Bài 29: II Các Vua 1: "KHÔNG CÓ ĐỨC CHÚA TRỜI SAO?"


Không Có Đức Chúa Trời Sao?

– II Các Vua 1

            Đây là câu chuyện nói tới chuyến đi sau cùng của Êli. Đức Chúa Trời có một việc sau cùng dành cho sơn nhân của Ngài, và rồi Ngài sẽ đưa ông về trời. Câu chuyện bắt đầu theo cách nầy: Sau khi A-háp băng hà, dân Mô-áp phản nghịch cùng Y-sơ-ra-ên. A-cha-xia…” (câu 1). Achaxia là con trai của Aháp. Chúng ta thấy sau đó Aháp có hai người con trai, và cả hai đều chống nghịch Đức Giêhôva. Khi Aháp qua đời, người con lớn là Achaxia lên nối ngôi của Israel. Hãy nhớ rằng Giêsabên hãy còn sống kia. Bà ta sẽ còn sống trong nhiều năm nữa. Bà ta thực sự là người trị vì rất hiệu quả trên xứ Israel. Nhưng một trong hai người con của Aháp giờ đây đang ngồi trên ngai vàng. Người nầy chỉ ngồi trên ngai vàng trong hai năm ngắn ngủi và rồi người ra đi. Và đây là câu chuyện nói tới cách ông ta qua đời, ngày nay câu chuyện chiếm lấy sự chú ý của chúng ta.
            Bây giờ, đây là vấn đề. Achaxia đã té ngang qua song lầu phòng cao của mình ở Samari và bị thương nặng. Bậc vua chúa bị thương là điều thực sự hiếm khi lắm. Nếu nhà vua bị thương ngoài chiến trường, đấy sẽ chấn thương rất đáng nể và là phương thức danh dự để chết. Nhưng té ngang qua song lầu rồi chạm mặt đất ở bên dưới, điều nầy thì ly kỳ thay. Chắc chắn đây là điều mà bạn không muốn công khai. Chúng ta không biết tại sao điều nầy lại xảy ra. Có ai đó đẩy ông ta té ngã không? Ông ta vấp ngã ư? Ông ta có say rượu không đó? Chúng ta không biết. Khi ông ta chạm mặt đất, thì rõ ràng là ông ta đã bị thương nặng rồi đấy. Và chẳng có ai có thể giúp đỡ cho ông ta cả. Không một ai trong cả xứ Israel có thể chữa lành các thương tích của ông ta. Vì vậy, ông ta nhũ thầm: “Ta cần sự cứu giúp từ trên cao”. Chỉ bởi trên cao thôi, ông ta chớ hề nghĩ đến Giêhôva Đức Chúa Trời của Israel; ông ta đã nghĩ đến một đấng nào khác kìa.
            Vì vậy, ông ta gửi lời các sứ giả: hãy đi cầu vấn Ba-anh-Xê-bụt, thần của Éc-rôn, đặng cho biết ta sẽ lành bịnh này chăng?(câu 2).
            Danh xưng Baanh Xêbụt xuất hiện chỉ ở đây trong Cựu Ước. Tất nhiên, Baanh là tên của tà thần mà Giêsabên đã mang vào xứ. Hắn là thần mặt trời, thần của bão táp, thần của mùa màng. Hắn là thần của các xứ theo tà giáo ở chung quanh xứ Israel. Phần còn lại của danh xưng nghe rất kêu lắm. Xêbụt thực sự mang đến cho bạn âm thanh … X..x…x..êbụt, X..x…x..êbụt, từ nầy có nghĩa là tiếng vo vo của loài ruồi. Baanh Xêbụt theo nghĩa đen có ý nói tới “chúa tể của loài ruồi”. Baanh Xêbụt là danh xưng đặc biệt nói tới thần linh của dân sự thuộc khu vực Écrôn, một thành nằm trên bờ Biển Địa Trung Hải. Đây là một trong năm thành phố chính của người Philitin. Khi họ dâng các thứ của lễ cho Baanh Xêbụt, người Philitin đã tin thần nầy có thể tiên đoán cuộc tương lai. Điều nầy rất thực, đây là công việc của ma quỉ làm qua tà thần. Đấy là lý do tại sao Achaxia muốn tư vấn Baanh Xêbụt. Ông ta muốn biết ông ta sẽ khá hơn hay là không, hoặc ông ta sẽ chết đi vì các chấn thương của mình.
            Có một cách duy nhứt nắm bắt câu chuyện nầy. Israel vốn có một Đức Chúa Trời rồi, là Giêhôva Đức Chúa Trời của Israel. Thay vì xây sang Đức Chúa Trời chơn thật, Achaxia đặt tương lai mình vào hai bàn tay của Baanh Xêbụt.

Ôi chao ôi!

            Tôi dừng lại ở đây để bình luận rằng, ở một cấp độ chúng ta có thể hiểu nổi ao ước của Achaxia. Hết thảy chúng ta đều muốn biết rõ cuộc tương lai. Chúng ta muốn biết điều chi sẽ xảy ra vào ngày mai, ngày mốt, tuần kế, tháng tới, năm tới. Các tập đoàn lớn chi hàng triệu đôla cho những nhà tư vấn, họ có thể dự đoán mọi xu hướng làm ăn trong tương lai. Nếu bạn có người thân với bịnh ung thư, bạn muốn biết tương lai đang nắm giữ điều gì. Nếu bạn có con cái, bạn thường lấy làm lạ (và có khi lo lắng nữa) về mọi quyết định chúng đưa ra. Ngay giờ phút nầy, tôi muốn biết rõ tương lai của chính mình. Ít nhất, tôi nghĩ mình sẽ biết được đấy. Có lẽ tôi sẽ không vui nếu như tôi biết được cuộc tương lai đó. Ai biết nào? Nếu bạn là một nhà đầu tư, bạn sẽ muốn biết rõ về thị trường chứng khoán. Đấy là lý do tại sao người ta xem Cramer chọn cổ phiếu của mình trên CNBC gọi là “Mad Money” (tiền điên). Người ta gào lên “ôi chao ôi” với Cramer và ông hô to “ôi chao ôi” trả lại. Khi ấy, họ nói ra một việc đại loại như: “Jim ơi, ông nghĩ gì về Nước Sinh Tố của Bắc Dakota (Amalgamated Fruit Juice of North Dakota – viết tắt là AFJND)?” Ông ta đập vào cái nút, rồi đạt tới phần lịch sử thị trường chứng khoán mới đây của AFJND. Tiếp đến, ông ta bắt đầu gào lên về mùa cam ở North Dakota không được trúng năm nay và mùa cam thì trúng hơn ở Florida, còn lúa mì ở North Dakota trông rất trúng đấy, nhưng ông ấy nghĩ thị trường chứng khoán đã đắt lên. “Đúng là đồ đểu! Hãy bỏ đi”. Và ông ta đập vào cái nút, khi ấy bạn nghe thấy một âm thanh giống như nước xả ra vậy. Ông ta nói: “Tôi muốn nhắm vào hiệp hội củ hành Mỹ. Chúng là giống tốt nhứt”. Và rồi ông bước qua chỗ kế đó. Chỉ nghe thấy bang, bang, bang. Tiếng ấy không thể cưỡng lại được. Nó làm cho mê hoặc. Tôi nghĩ ông là người rất am hiểu và có nhận định tốt. Nhưng có một việc quan trọng ở đây. Cramer là một bậc thầy, một thiên tài ở thị trường chứng khoán. Hay dường như vậy. Tôi chưa đủ tư cách để xét nét. Nhưng tôi xem vì đây là buổi trình diễn rất hay, và tôi muốn biết tương lai cũng nhiều y như bao người khác. Và ngay cả tôi không có tiền ở AFJND hay ở hiệp hội củ hành Mỹ nữa.
            Chuyện sẽ trở nên riêng tư hơn khi bạn lấy làm lạ về sức khỏe của chính bạn hay sức khỏe của người bạn đời hay của con cái bạn. Bạn muốn biết không hiểu con cái của mình có chịu kết hôn hay không, và nếu có, thì ai sẽ là người may mắn đây? Chúng sống có hạnh phúc không? Cuộc hôn nhân đó có kéo dài không? Và chừng bao lâu nữa thì chúng sẽ đem cháu qua đây chứ? Bạn suy nghĩ về sự nghiệp của chính mình rồi tự hỏi: “Lạy Chúa, phải chăng đây là điều mà con dự tính cho phần đời còn lại của mình? Nếu không phải vậy, không cứ cách nào đó Ngài có thể giúp cho con biết được chăng?” Điều đó hoàn toàn là dễ hiểu thôi. Hết thảy chúng ta đều tự hỏi những việc đại loại như thế. “Lạy Chúa, con có những ước mơ và mọi điều lo toan. Con có nhiều thứ làm nặng lòng con. Lạy Chúa, đâu là tương lai của chính con? Xin chỉ cho con đường lối con phải theo”.

Crossing Over

            Tôi không phê phán Achaxia về việc muốn biết mình có được hồi phục hay không!?! Điều đó rất tự nhiên. Nhưng ông ta đến không đúng chỗ rồi. Đến không đúng chỗ sẽ cho thấy đấy là một sai lầm nghiêm trọng. Và chúng ta sẽ không lấy làm ngạc nhiên vì khi người ta đâm chán nản, họ sẽ xây qua bất kỳ nguồn nào hứa hẹn với họ sự cứu giúp. Bạn trao đổi với một người bạn trên điện thoại. Bạn gọi đường dây nóng đồng cốt. Bạn nhìn vào lá số tử vi của mình. Thậm chí bạn sẽ gọi một đồng cốt, một người theo thuyết duy linh. Hết thảy chúng ta có khuynh hướng nghĩ tới đồng cốt giống như thể chúng là mụ phù thủy trong truyện cổ tích vậy. Đồng cốt ngày hôm nay trông giống như bạn và tôi. Còn thanh niên điển trai trên vở kịch Crossing Over thì sao? Anh ta trông giống như gã bên cạnh đây. Dễ mến lắm. Đẹp trai nữa. Ăn mặc đàng hoàng nhưng không quá chải chuốt. Nụ cười thân thiện. Thái độ thật tự nhiên. Trông anh ta giống như vận động viên hàng đầu kia kìa. Anh ta thật giống như một gã toàn Mỹ. Loại láng giềng mà bất cứ ai cũng muốn có. Thậm chí anh ta còn có một quyển sách cầu kinh Mân Côi nữa. Bạn nhũ thầm: “Một thanh niên Công giáo đây mà”. Mà cũng phải đấy, anh ta xưng mình có thể tiếp xúc với những người thân đã quá cố. Người ta trả thật nhiều tiền để đến với các buổi nhóm, ở đó anh ta xưng mình có thể tiếp nhận các sứ điệp đến từ ai đó đã “qua đời rồi”. Anh ta cũng ăn mặc đàng hoàng lắm kia. Thiệt là may. Ăn nói lưu loát, hội hiệp cũng nhanh không kém, xưng mình có thể nghe thấy các giọng nói hay tiếp thu các hình ảnh đến từ “cõi kia”. Sứ điệp luôn luôn đến từ kẻ chết là: “Chúng tôi đang bình yên mà. Đừng lo về chúng tôi. Bạn đang ăn ở đàng hoàng đấy và chúng tôi yêu mến bạn”. Thiệt là an ủi.
            Anh ta xưng mình là đồng cốt và là một nhà tâm linh với một khả năng kỳ lạ nói trước cuộc tương lai và giao thông với kẻ chết. Tôi hiểu lý do tại sao người ta đến gặp anh ta vì anh ta trông bình thường như bao người khác mà bạn từng gặp gỡ. Làm ơn hiểu cho. Nổi ao ước muốn biết cuộc tương lai tự bản thân nó chẳng có gì sai. Cái sai là đi tới chỗ không đúng. Người nào đi gặp đồng cốt đang uống từ một dòng suối bẩn thỉu, và những gì họ nhận lãnh không đến từ Đức Chúa Trời. Những điều họ nhận lãnh sẽ trở thành chất độc hủy diệt linh hồn họ.

Sứ điệp sau cùng của Êli

            Có nhiều việc không thay đổi bao nhiêu trong ba ngàn năm. Lỗi lầm lớn lao của Achaxia là đến không đúng chỗ. Vì vậy, ông ta đã sai sứ giả mình đi xuống Écrôn. Ở đó họ sẽ tiếp xúc với Baanh Xêbụt để xem coi nhà vua có hồi phục từ các thương tích của ông ấy chăng!?! Chúng ta xem lại câu chuyện một lần nữa ở câu 3: Nhưng thiên sứ của Đức Giê-hô-va phán với Ê-li, người Thi-sê-be, rằng: Hãy chổi dậy, đi lên đón các sứ giả của vua Sa-ma-ri, và nói với họ rằng: Trong Y-sơ-ra-ên há không có Đức Chúa Trời sao, nên ngươi đi cầu vấn Ba-anh-Xê-bụt, thần của Éc-rôn?
            Hãy chú ý cụm từ “đi lên”. Các bản dịch cũ sử dụng từ “trở dậy”. Cũng y như khi Đức Chúa Trời bảo ông phải đối diện với Aháp qua việc giết Nabốt. “Hãy chờ dậy” “Hãy đi lên, Êli ơi. Ta có một việc nhờ ngươi làm đây”. Hãy đi rồi hỏi ông ta một câu: “Trong Israel há không có Đức Chúa Trời sao?” Trong Isarel há không có Giêhôva Đức Chúa Trời Toàn Năng sao, để ngươi phải đi xuống gặp những kẻ theo tà giáo rồi ngươi cầu hỏi tà thần về tương lai chứ? Giờ đây, hãy đến với các tin xấu ban cho Achaxia: Ngươi sẽ không xuống khỏi giường mà ngươi đã lên, nhưng hẳn sẽ chết. Đoạn, Ê-li đi. Đấy là mọi sự có trong tin xấu đó. Đức Chúa Trời đã ban cho ông sứ điệp, và Êli phải phát nó ra. Bùm! Giống như bao lần khác. Người ta chẳng thấy ông ở đâu hết, ông xuất hiện rồi ban ra sứ điệp, và ông biến mất. Rõ ràng các sứ giả bối rối đến nỗi họ không đi đến Écrôn. Họ quay trở lại với nhà vua bằng tường trình nầy:
            “Có một người đi lên đón chúng tôi, và nói với chúng tôi rằng: Hãy trở về cùng vua đã sai các ngươi, và nói với người rằng: Đức Giê-hô-va đã phán như vầy: Trong Y-sơ-ra-ên há không có Đức Chúa Trời sao, nên ngươi sai đi cầu vấn Ba-anh-Xê-bụt, thần của Ec-rôn? Bởi cớ đó, ngươi sẽ không xuống khỏi giường mà ngươi đã lên, nhưng hẳn sẽ chết!”  (câu 6). Vì thế, nhà vua muốn biết ai dám đưa ra một  sứ điệp tiêu cực như thế. Tôi thích câu trả lời của họ vì rõ ràng là họ chẳng có ý niệm gì về ông là ai hết. Họ mô tả Êli như vầy: Người đó mặc áo lông, và thắt lưng bằng dây da (câu 8). Theo L.L. Bean, đây là cách ăn mặc của người vùng miền núi, họ luôn ăn mặc như thế. Vua nói rằng: Ấy là Ê-li, người Thi-sê-be” .

Hạng người hư mất đang quan sát chúng ta

            Hãy suy nghĩ về việc nầy trong một phút xem. Nhà vua biết rõ Êli. Tại sao chứ? Vì Êli đã xử lý với Aháp cha của ông ta. Hạng người hư mất quan sát chúng ta nhiều hơn là chúng ta biết nữa. Hạng người hư mất chú ý chúng ta nhiều hơn là chúng ta mong mõi nữa. Hạng người hư mất biết nhiều hơn chúng ta nghĩ họ biết nữa. Nhiều hơn bất cứ điều chi khác, hạng người hư mất biết chúng ta nhận biết Đức Chúa Trời hay là không. Họ quan sát chúng ta để xem coi họ chúng ta có sống thực hay không!?! Họ quan sát chúng ta từ đàng xa. Những người bạn đồng sự của bạn đang quan sát bạn đấy. Những kẻ láng giềng đang quan sát bạn kìa. Những người bà con chưa được cứu của bạn đang quan sát bạn đó. Có thể họ không nói nhiều với bạn. Có thể bạn chưa nhận ra sự việc ấy. Có thể bạn chưa nghe biết về họ trong nhiều năm trời. Nhưng ngày sẽ đến khi bạn nhận ra rằng có người đang quan sát bạn mọi lúc mọi khi rồi đưa ra những kết luận về đức tin, sự ngay thẳng và tình trạng chơn thật của bạn. Và họ đang rút tỉa những kết luận về thực tại đức tin của bạn nơi Đức Chúa Trời.
            Tôi tin Đức Chúa Trời thường ban cho hạng người hư mất cái nhìn sâu sắc vào các Cơ đốc nhân ở chung quanh họ. Nói như thế là nói tôi tin Thánh Linh của Đức Chúa Trời ban cho hạng người hư mất khả năng xem thấu tận cốt lõi chúng ta là ai. Nếu bạn đến với hạng người hư mất rồi cung ứng cho họ một bài tập về giáo lý, họ sẽ đánh hỏng nó. Nhưng nếu bạn lấy một người bị hư mất rồi đặt một nhóm Cơ đốc nhân mà họ biết ở trước mặt họ, tôi tin hạng người bị hư mất kia chẳng chút bối rối khi họ cho biết: “Ông, bà nầy là tín đồ ư, tôi không nhìn thấy họ có gì quan trọng hết”. Có thể họ chẳng hiểu gì về Ba Ngôi Đức Chúa Trời hay toàn bộ sự hư mất, và hết thảy quan niệm nói tới sự tái lâm trước thời kỳ thiên hi niên của Đấng Christ có thể là một lẽ mầu nhiệm đối với họ, song hạng người hư mất có thể nói ra sự khác biệt giữa thực và hư. Nếu bạn hồ nghi, chỉ cần hỏi ai đó trong số bạn hữu mình chưa được cứu xem: “Bạn thấy gì khi bạn nhìn vào tôi?” Bạn sẽ lấy làm kinh ngạc nơi câu trả lời cho xem.
            Vì nhà vua biết rõ. Ông đáp: Ấy là Ê-li, người Thi-sê-be”.
            Giờ đây, nhà vua sai một số người đi bắt Êli. Ông ta sai một viên quan cai đi với toán quân 50 người. “Quan cai năm mươi lính đi với năm mươi lính mình lên cùng Ê-li Vả, Ê-li đang ngồi trên chót gò (câu 9). Tôi thích ở chỗ Êli đang ngồi trên chót gò, đang trò chuyện với Chúa, ông đang hứng đón các tia sáng, ông đang thưởng thức ban ngày. Ông không còn ẩn trốn lúc bấy giờ. Ông ra chỗ công khai, ở đó ai nấy đều nom thấy ông. Và viên quan cai 50 người kia nói: Hỡi người của Đức Chúa Trời, vua đòi ông xuống. Bạn nghĩ nhà vua muốn điều gì chứ? Nhà vua muốn quăng ông vào trong nhà ngục. Êli nói: Nếu ta là người của Đức Chúa Trời, nguyện lửa từ trên trời giáng xuống thiêu đốt ngươi, luôn với năm mươi lính của ngươi đi! (câu 10). Tôi dám chắc rằng đấy là việc sau cùng mà viên quan cai rất muốn nghe. Kỳ thực, đấy là việc sau cùng ông ta đã nghe vì câu kế tiếp chép: Lửa từ trên trời liền giáng xuống thiêu đốt quan cai và năm mươi lính của người”.
            Rõ ràng nhà vua là một kẻ chậm tiếp thu vì ông ta đã sai quan cai khác đi với 50 lính mình đến bắt Êli. Cũng câu chuyện ấy, lần thứ nhì.
            “"Hỡi người của Đức Chúa Trời, vua phán như vầy: Hãy mau mau xuống. Nếu ta là người của Đức Chúa Trời, nguyện lửa từ trên trời giáng xuống thiêu đốt ngươi với năm mươi lính của ngươi đi. Lửa của Đức Chúa Trời liền từ trời giáng xuống thiêu đốt quan cai với năm mươi lính của người” (các câu 11-12).

Tôi sẽ đi đâu trừ ra đến với Chúa chứ?

            Bùm! Cũng một thể ấy, lửa giáng xuống từ trời thiêu đốt viên quan cai thứ nhì cùng 50 lính của ông ta. Vì vậy, nhà vua sai viên quan cai thứ ba đến với 50 lính của mình. Tôi e họ là những kẻ tình nguyện. Tôi hình dung viên quan cai đã sử dụng một loại thuyết phục rất mạnh mẽ. Viên quan cai thứ ba, là kẻ lanh lợi hơn nhà vua, ông ta quyết định không muốn mình sẽ kết thúc trong ngọn lửa.
            Viên quan cai thứ ba nầy đi lên rồi phủ phục xuống trước mặt Êli.
            cầu xin người rằng: Hỡi người của Đức Chúa Trời, xin ông xem quí trọng mạng sống của tôi và mạng sống của năm mươi người này, là kẻ tôi tớ ông! Kìa, lửa đã giáng từ trời, thiêu nuốt hai quan cai năm mươi lính trước, và năm mươi lính của họ; nhưng bây giờ, xin xem mạng sống tôi là quí trọng trước mặt ông!” (các câu 13-14).
            Thiên sứ của Đức Giêhôva bảo Êli đi với ông ta để gặp nhà vua. Trước đây, ông đã đứng trước mặt Aháp là vua cha; giờ đây ông đứng trước mặt Achaxia là vua con. Điều nầy cần có một lượng dạn dĩ để thực hiện vì Achaxia đang đau bịnh. Giờ đây vị tiên tri đã nói cho ông ta biết là ông ta sẽ chết. Một trăm quân của ông ta đã ngã chết, bị lửa thiêu nuốt. Tôi dám chắc ông ta đang ở tâm trọng rối reng dữ lắm. Tôi dám chắc Êli biết rõ nhà vua sẽ ra sức tử hình ông vào bất kỳ giờ phút nào. Bạn nghĩ Êli sẽ làm gì nào? Ông không chờ cho Achaxia thốt ra một lời.
            “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Bởi vì ngươi có sai sứ giả đến cầu vấn Ba-anh-Xê-bụt, thần của Éc-rôn, (há trong Y-sơ-ra-ên chẳng có Đức Chúa Trời để cầu vấn sao?) nên ngươi sẽ không xuống khỏi giường ngươi đã trèo lên, vì ngươi chắc sẽ quả chết!” (câu 16).
            Há trong Israel chẳng có Đức Chúa Trời sao? Đúng là một câu hỏi dành cho hết thảy chúng ta!
            Há trong thành phố nầy chẳng có Đức Chúa Trời sao?
            Há trong hội thánh của bạn chẳng có Đức Chúa Trời sao?
            Há trong gia đình của bạn chẳng có Đức Chúa Trời sao?
            Há trong cuộc hôn nhân của bạn chẳng có Đức Chúa Trời sao?
            Há trong đời sống của bạn chẳng có Đức Chúa Trời sao?
            Há chẳng có Đức Chúa Trời nơi người mà bạn cùng đi với trong kỳ hoạn nạn sao?
            Abraham Lincoln đã nói: “Tôi đã quì gối xuống do suy nghĩ nhiều lần rằng tôi chẳng có chỗ nào khác để đi cả”.
Tôi sẽ đi đâu, tôi sẽ đi đâu chứ,
Tìm nơi trú ẩn cho linh hồn tôi.
Tôi cần một người bạn giúp đỡ tôi cho đến cuối cùng
Tôi sẽ đi đâu trừ ra đến với Chúa chứ?
            Vì vậy, nhà vua đã qua đời y như Êli đã nói ông ta sẽ chết. Chẳng có một chi tiết nào nữa vì chẳng nhằm nhò gì cả. Ông ta đã qua đời rồi. Việc duy nhứt thực sự là vấn đề là phần thứ nhứt của câu 17: Vậy, A-cha-xia thác, theo như lời Đức Giê-hô-va đã cậy Ê-li mà phán ra”.

Peter Blakemore

            Chẳng chóng thì chày thì sự chết đến với hết thảy chúng ta. Mùa hè qua, tôi sử dụng cả tuần lễ rao giảng ở Trung tâm Hội Nghị Gull Lake ở bang Michigan. Hai lần tôi nghe Daniel Wallace, vị giám đốc nói: “Địa ngục nóng lắm; đời sống  thì ngắn ngủi”. Đâu là đời sống của bạn chứ? Chẳng qua chỉ là hơi nước đọng lại một chút rồi tan ngay thôi. Môise đã cầu nguyện: “Cầu xin Chúa dạy chúng tôi biết đếm các ngày chúng tôi, hầu cho chúng tôi được lòng khôn ngoan” (Thi thiên 90:12).
            Một thời gian ngắn trước khi bạn tôi là Peter Blakemore qua đời, tôi gặp ông ấy lần cuối trong buổi nhóm cầu nguyện của Mục sư vào ngày cầu nguyện quốc gia. Tôi đã không gặp Peter trong một thời gian vì ông ấy đang phấn đấu với bịnh ung thư. Tôi biết ông ấy đã trải qua một sự thử thách ác liệt lắm, nhưng tôi chẳng có ý kiến gì khi hay tin xấu đó. Khi tôi đến với buổi nhóm cầu nguyện, tôi quen biết hầu hết mọi người ở đó vì họ đều là quản nhiệm các nhà thờ trong cùng một địa hạt. Có một người ngồi trên chiếc xe lăn với hai thanh niên đứng hai bên. Vì lưng của ông quay về phía tôi, tôi không nhận ra cho tới khi tôi ngồi xuống trong vòng tròn kia. Khi ấy, tôi mới biết đấy là bạn tôi Peter Blakemore. Peter là Mục sư quản nhiệm hội thánh Harrison Street Bible ở Oak Park. Trước khi Peter là Mục sư, cha của ông đã hầu việc Chúa ở nhà thờ ấy trong hơn 30 năm rồi. Trừ ra các năm học đại học và tốt nghiệp, Peter đã dùng cả đời sống mình ở Oak Park. Khi ông hoàn tất học vấn của mình rồi, ông trở lại với Oak Park để hiệp cùng cha mình ở Hội thánh Harrison Street Bible. Và khi cha ông qua đời, ông đã gánh vác chức vụ quản nhiệm thay chỗ cho cha mình. Peter Blakemore là một trong những người dịu dàng, tử tế nhất, giàu ơn nhất mà tôi từng quen biết. Ông sắp sửa được 40 tuổi khi ông qua đời. Ông để lại sau lưng một vợ và 7 con. Ông mắc một chứng ung thư rất hiếm. Họ đã gửi mẫu đi nhiều nơi khác nhau trong nước, hy vọng tìm được phương cứu chữa. Ông đã nếm trải nhiều cách điều trị khác nhau song chẳng có hiệu quả chi hết. Chứng ung thư sau cùng đã gậm nhấm cơ thể ông như một sự báo thù vậy. Và ông có mặt ở đó trong ngày cầu nguyện của quốc gia với hai người con trai của ông.
            Chúng tôi cúi đầu xuống khi chúng tôi cầu nguyện, tôi để ý thấy một âm thanh lạ lùng, một loại cọ xát hoặc đập nhịp rất nhịp nhàng. Tôi không biết đó là việc gì nữa. Peter Blakemore là người sau cùng cầu nguyện trong ngày ấy. Và ông nói: “Lạy Chúa, Ngài biết con đã cầu xin Ngài chữa lành cho con chứng ung thư nầy. Và nếu Ngài chữa lành cho con, con sẽ đứng dậy và dâng sự vinh hiển cho Ngài. Còn nếu Ngài quyết định đem con về thiên đàng, Lạy Chúa, con sẽ trung tín với Ngài bằng đời sống của con và bằng cái chết của con hầu cho trong mọi sự Ngài sẽ được vinh hiển”.
            Khi buổi nhóm cầu nguyện kết thúc hầu hết mọi người đều rời khỏi phòng nhóm. Chỉ có bốn người chúng tôi còn ở lại – Peter, hai người con trai và tôi. Chúng tôi trao đổi trong một lúc. Ông nói cho tôi biết một chút về các cách chữa trị. Giống như mới đây họ đã nghe nói từ các y bác sĩ rằng có một loại khối u mới đang hình thành trong phổi của ông, và các bác sĩ chưa thể hình dung cách ấy như thế nào nữa là. Họ đã nói tới hai việc. Một, bạn sẽ sống từ một đến ba tuần nữa. Còn việc kia, bạn sẽ sống hai hay ba tháng nữa. Khối u đã lớn lên trong hai lá phổi của ông tới điểm nó sẽ làm gãy hai hoặc ba cái xương sườn của ông. Trong khi ông đang cầu nguyện, ông gập người xuống trên chiếc xe lăn. Tiếng đập nhịp nhàng mà tôi đã nghe thấy là âm thanh của đứa con trai lớn của ông đang đập vào lưng cha mình để làm giảm cơn đau một chút. Peter nói cho tôi biết Chúa nhật trước ông đã giảng ở nhà thờ lần đầu tiên trong 8 tuần lễ. Ông đã giảng luận từ chiếc xe lăn đề tài ở Rôma 11:33: Ôi! sâu nhiệm thay là sự giàu có, khôn ngoan và thông biết của Đức Chúa Trời! Sự phán xét của Ngài nào ai thấu được, đường nẻo của Ngài nào ai hiểu được!” “Mục sư Ray ơi, ông có biết câu Kinh thánh ấy nói gì không?” Peter nói giống như việc lần theo các ngôi sao ở trên trời vậy. Khi bạn nhìn lên bầu trời ban đêm rồi thấy một ngôi sao, bạn biết rằng ngôi sao ấy đang quay trên một quỹ đạo, song nếu bạn chỉ nhìn chăm vào nó, mọi sự bạn có thể làm là nhìn thấy chỗ ngôi sao ấy đang đứng mà thôi. Thực sự bạn không thể nói ngôi sao ấy ra từ đâu hay nó sẽ đi đâu. Và ông nói: “Cũng một thể ấy với Chúa. Không một ai có thể nói chỗ mà Ngài đã bắt đầu. Không một ai có thể nói chỗ mà Ngài sẽ tới đến. Mọi sự bạn nhìn biết là Ngài đang hiện diện ở đây và bạn ở đây với Ngài, còn cuộc tương lai thì nằm trong hai bàn tay của Ngài”. Khi ấy, ông nói thêm: “Tôi nói với dân sự tôi sáng Chúa nhật vừa qua: Tôi đã cho quí vị thấy tôi sống như thế nào rồi. Giờ đây, tôi sẽ cho quí vị thấy cách tôi qua đời”. Đây là lời lẽ sau cùng ông nói với tôi: “Suốt cuộc đời tôi, tôi đã rao giảng về ân điển của Đức Chúa Trời. Tôi đã có một thời khiến cho dân sự phải lắng nghe. Giờ đây, tôi không có chút bối rối nào vì họ đã nhìn thấy ân điển của Đức Chúa Trời đang tác động trong đời sống  của tôi”.
            Chúng tôi chào tạm biệt và hai con trai của ông đã đẩy ông ra khỏi phòng. Đây là lần cuối cùng tôi gặp ông hãy còn sống. Hai hay ba tuần sau ông đã qua đời nầy bước vào trong sự hiện diện của Đức Chúa Jêsus Christ. Tôi suy gẫm những điều ông đã nói và tôi đã suy nghĩ rất nhiều lần kể từ dạo ấy. Ai có thể hiểu được đường nẻo của Chúa? Bạn không thể. Tôi không thể. Không một ai có thể. Nhận biết chúng ta thuộc về Ngài là đủ rồi. Ngài biết rõ những gì Ngài sẽ làm. Ngài biết rõ chúng ta sống ở đâu. Và khi mọi sự qua đi, chúng ta sẽ ở chính xác nơi mà Ngài muốn chúng ta phải ở, với Ngài cho đến đời đời ở trên trời.
            Điều chi sẽ xảy ra cho hôm nay và ngày mai? Tôi không biết. Điều chi sẽ xảy ra vào tuần tới hay tháng tới? Tôi không biết. Điều chi sẽ xảy ra vào năm tới tính từ bây giờ trở đi? Tôi không biết. Nhưng tôi biết Đấng biết.
            Há trong Israel chẳng có Đức Chúa Trời sao? Phải, có đấy. Và Ngài cũng là Đức Chúa Trời của tôi nữa đấy. Tôi không biết tương lai đang nắm giữ điều gì, nhưng tôi biết Đấng nắm giữ cuộc tương lai. Và chúng ta có thể tin cậy nơi Ngài. Amen.