Thứ Sáu, 28 tháng 2, 2014

Bài 10: I Các Vua 18:16-19: ÊLI GẶP VÀ QUỞ TRÁCH AHÁP: "SỰ ĐỐI ĐẦU TRÊN NÚI CẠTMÊN (Bối cảnh 3)


Bài 10:
Êli gặp và quở trách Aháp
(I Các Vua 18:16-19)
Sự đối đầu trên Núi Cạtmên (Bối cảnh 3)

PHẦN GIỚI THIỆU:
Khi chúng ta hướng vào mục đích chính của Đức Chúa Trời trong sự tỏ ra các ân tứ và khả năng mà Đức Chúa Trời ban cho, chúng ta mỗi người đối diện với nhiều sự cố nhỏ hơn trong các hoàn cảnh của cuộc sống. Các sự cố nhỏ nầy giống như những sợi chỉ đan thành một tấm thảm tạo ra một bức tranh đẹp và tao nhã. Chính bản thân chúng, chúng dường như chẳng có nghĩa lý gì cả, nhưng hết thảy chúng đều rất quan trọng trong một chương trình toàn cảnh của Đức Chúa Trời. Trong bài học nầy, chúng ta xét qua những sợi chỉ đan dệt thành bức tranh nói tới cuộc đối đầu diễn ra tại Núi Cạtmên. Đây là cuộc đối đầu đã được ấn định để bày tỏ ra quyền phép của Đức Chúa Trời, để quở trách dân sự vì sự họ chao đảo và thờ lạy hình tượng, và để thách thức họ phải chọn đứng về phía Chúa. Một phần của bức tranh: ấy là một vị Vua gian ác đã thất bại đáng thương không chăn giữ được dân sự của Đức Chúa Trời. Trong bối cảnh nầy chúng ta có một cái nhìn thoáng qua vào tính cách của nhà lãnh đạo nầy. Quả thực đây là một lời cảnh cáo dành cho hết thảy những ai đang nắm giữ những địa vị lãnh đạo và ảnh hưởng, rồi có một nhận định: ấy là lời cảnh cáo nầy áp dụng cho hết thảy chúng ta vì chúng ta mỗi người đều có ảnh hưởng nào đó trên nhiều người khác.
Sự bày tỏ ra quyền phép của Đức Chúa Trời về sau trong chương nầy được đề ra nghịch lại với tình trạng bất lực của Baanh. Điều nầy được ấn định để dạy cho dân sự và Vua Aháp biết rằng cơn hạn hán ba năm rưỡi được nối theo sau bởi cơn mưa sắp tới là công việc của Đức Giêhôva, là Đức Chúa Trời chơn thật duy nhất. Cơn hạn hán là kỷ luật cho sự bất tuân đối với Lời của Đức Chúa Trời và cơn mưa là sự tiếp trợ của ân điển Ngài. Trong tấn kịch nầy, và bối cảnh diễn ra rất quan trọng vì các bài học chúng ta có thể tiếp thu bằng cách chỉ ra những đối ngược giữa những người nhơn đức tin đồng đi với Đức Chúa Trời, tin cậy Ngài hơn là tin theo các chương trình riêng của họ, và những người không tin.
Thêm nữa, I Các Vua 18:16-24 giới thiệu cho chúng ta sự đối đầu và sự tranh chiến. Chúng ta không thích như thế. Khuynh hướng tự nhiên của chúng ta là tránh né sự đối đầu và tranh chiến. Thật là dễ bơi xuống hay trôi nổi theo dòng nước hơn là phải đối đầu với nhiều vấn đề, nhiều nan đề, hoặc bất cứ điều chi sẽ gây ra sự tranh chiến.
Cuộc đối đầu hiếm khi không đau đớn, không bao giờ dễ chịu, thường bị chối bỏ, và luôn luôn là liều lĩnh. Nhưng trong một số trường hợp Kinh Thánh đòi hỏi phải có sự đối đầu đó, đã được minh hoạ ra trong Kinh Thánh, và thường rất quan trọng cho sự tấn tới về mặt thuộc linh, sự tin kính, và sự thay đổi theo Kinh Thánh. Tất nhiên, sự đối đầu cần phải được thực hiện theo các nguyên tắc của Kinh Thánh, vì những lý do theo Kinh Thánh, và phát xuất từ những động lực đúng đắn. Chúng ta thường tránh né đối đầu vì những lý do rất ích kỷ – vì sợ mọi hậu quả về phía chúng ta. Một đáp ứng như thế không phải là đức tin cũng không phải tình yêu thương. Đó là sự hèn nhát. Sự tránh né ấy làm đẹp lòng chúng ta hơn là hành động trong đức tin và tình yêu thương. “Một lời quở trách tỏ tường hơn là thương yêu giấu kín. Bạn hữu làm cho thương tích, ấy bởi lòng thành tín; còn sự hôn hít của kẻ ghen ghét lấy làm giả ngụy” (Châm ngôn 27:5-6).
Các tiên tri xưa thường là loại tiên tri hay đối đầu. Họ đều đặn đối mặt dân sự với tội muốn sống độc lập và kêu gọi họ phải đối mặt với nhu cần của họ. Chúa Giêxu cùng các sứ đồ của Ngài đã làm theo y như thế. Hãy nhớ, chính Chúa Giêxu đã gọi người Pharisi là “giả hình” “mồ mả tô trắng”. Ngài đã đối diện với người đờn bà bên giếng với tội tà dâm của bà ta, Nicôđem với sự trống không tôn giáo của ông ta, và Phierơ với những lần chối Chúa của ông. Phaolô đã chống đối Phierơ tận mặt vì cách ăn ở tôn giáo hai lòng của ông ta đã được nhắc tới trong Galati 2:11-14.
Không những Kinh Thánh hay đối đầu mà Kinh Thánh còn yên ủi nữa. Không những Kinh Thánh đối mặt với chúng ta do tính lấy cái tôi làm trung tâm, tội lỗi, sự loạn nghịch, và các phương thức độc lập của chúng ta, mà Kinh Thánh còn ban hiến cho chúng ta ân điển, sự phục hoà, quyền phép, và nhiều ơn phước khác trong tin lành được ban ra đem lại sự tha thứ, được ấn định để làm thay đổi chúng ta, và được ấn định để dẫn chúng ta vào trong phước hạnh và sự bảo hộ của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, vì sự cứng lòng của chúng ta, vì chúng ta  thích tối tăm hơn sáng láng và chúng ta chiều theo cuộc sống bằng các giải pháp tự bảo hộ, đôi khi chúng ta phải đối diện với nhu cần phải đối đầu, kháng cự và xung đột.
Cuộc đối đầu vẫn thách thức sự đầu phục của chúng ta, các nguồn lực phước hạnh, ý nghĩa, và sự an ninh của chúng ta là quan trọng và là cơ sở cho bổn tánh của Lời Đức Chúa Trời và tình trạng của nhiều người nam người nữ. Chắc chắn cuộc đối đầu có thể nương theo phương pháp, kiểu cách, và động lực. Tuy nhiên, khi cuộc đối đầu là cuộc đối đầu theo Kinh Thánh, đây là một hành động quan trọng của tình yêu thương bày tỏ ra sự vâng phục đối với Đức Chúa Trời và đức tin nơi Ngài bất chấp mọi hậu quả.
I Các Vua 18:16 là một câu chuyển tiếp. Trong đó chúng ta gặp gỡ Ápđia, ông đã đáp ứng lại với chức vụ và sự khích lệ của Êli, nên gặp Aháp nói với ông ta về Êli, kế đó vua đã đi gặp vị tiên tri. Câu nầy cũng hướng chúng ta từ chức vụ và phương pháp của Êli với Ápđia đến chức vụ và phương pháp của ông với Aháp. Ở phần nào chúng ta cũng có sự khích lệ. Trong cuộc đối đầu và xung đột khác, cũng có một sự khác biệt về các nhu cầu. Ápđia chỉ cần được lưu ý và khích lệ. Còn Aháp, là người đã bị kéo vào sự thờ lạy hình tượng thần Baanh, ông ta cần phải đối đầu với tội lỗi của ông ta, những điều ông ta đã hợp lý hoá do đổ thừa cho người khác.
Hiển nhiên là chúng ta phải xử lý với dân sự một cách khác biệt và một trong các phần việc của chúng ta trong sự phục vụ tha nhân là phải biết phân biện, biết lắng nghe, và biết tìm cách hiểu rõ mọi nhu cần của người khác.
ÊLI GẶP AHÁP VÀ BỊ NHÀ VUA TỐ CÁO  (18:17)
Phản ứng và lời tố cáo của Aháp chỉ ra một lẽ thật cơ bản: “Vì hắn tưởng trong lòng thể nào, thì hắn quả thể ấy. Hắn nói với con rằng: Hãy ăn uống đi; Nhưng trong lòng hắn chẳng hiệp cùng con” (Châm ngôn  23:7). Hoặc như Chúa chúng ta đã nói trong Mathiơ: “Hỡi dòng dõi rắn lục; bay vốn là loài xấu, làm sao nói được sự tốt? Bởi vì do sự đầy dẫy trong lòng mà miệng mới nói ra. Người lành do nơi đã chứa điều thiện mà phát ra điều thiện; nhưng kẻ dữ do nơi đã chứa điều ác mà phát ra điều ác” (Mathiơ 12.34-35).
Một tấm lòng đầy dẫy với sự tức tối hay bất kỳ loại “suy tưởng bẩn thỉu” thì giống như một ngọn núi lửa sẵn sàng phun ra. Mọi sự tấm lòng đó cần là hoàn cảnh thích ứng – và “đùng”! Cái miệng nói ra sự đồi bại mà nó âm ỉ và thối rửa ở bên trong. Bức tranh nói về sự chất chứa nầy được Chúa sử dụng trong phân đoạn Kinh Thánh Mathiơ đề nghị như sau:
(1) Chúa so sánh các tư tưởng mà chúng ta chất chứa ở trong lòng. Chúng ta chất chứa và giữ lấy chúng ở trong trí não của mình vì chúng ta xem trọng và đặt lòng tin cậy nơi chúng. Chúng ta giữ lấy chúng vì chúng ta nghĩ chúng sẽ chu cấp cho chúng ta tùy theo nhu cần của chúng ta. Chúng ta nghĩ chúng sẽ giải quyết mọi nan đề của chúng ta. Chúng ta nghĩ chúng sẽ giải quyết nỗi đau hay nhu cần của chúng ta khi chúng ta vịn lấy chúng.
(2) Rõ ràng tâm trí chúng ta đang chất chứa những điều xấu xa. “Xấu xa”poneros tiếng Hy lạp, nó nói tới điều chi vô giá trị giống như trái cây xấu xí hoặc hư thối, hay loài thú vật nguy hiểm. Chính mọi điều đó bị Đức Chúa Trời chống cự. Đây là từ được sử dụng như “kẻ xấu” để nói tới Ma Quỉ. Từ nầy nói tới một điều xấu xa, độc địa giống như ung thư vậy.
(3) Những tư tưởng như thế tương đương với “suy nghĩ hư không”, nó dậy lên như một đồn lũy chống lại sự hiểu biết về Đức Chúa Trời. Nó chống lại Ngài là ai hay Ngài là gì đối với chúng ta và cần phải bỏ đi, cần phải hủy diệt đi giống như một toà nhà bị xét đoán vậy. Là một thứ chất chứa ở trong lòng, nó đáng phải bị tiêu phá đi, bị xét đoán, rồi ném bỏ đi như vật vô giá trị (II Côrinhtô 10.4-5). Những thứ xấu xa bẩn thỉu nầy chỉ ra đấu pháp của con người chúng ta, bởi đó chúng ta tìm cách lèo lái cuộc sống một cách độc lập không tin theo Đức Chúa Trời và các nguyên tắc sống của Ngài. “Suy nghĩ hư không” là tin vào bản thân, không tin theo Đức Chúa Trời và các giải pháp của Ngài. Và không có đức tin nơi một đối tượng đúng đắn, thì là tội lỗi (Rôma 14:23; Hêbơrơ 11:6).
(4) Mặt khác, những điều chất chứa trong tấm lòng có thể là tốt đấy! “Tốt” agathos được sử dụng để nói tới sự tốt đẹp thực hữu ở bên trong, là điều thực sự có giá trị giống như trái tốt, hay vàng, là thứ cung ứng quyền lực hoặc đem lại nhiều phước hạnh (đối chiếu Philíp 4:8).
Tấm lòng của Aháp vốn đầy dẫy với của cải xấu xa, bẩn thỉu – với sự bực tức, thù hận, khao khát muốn báo thù, và với những giải pháp của mình trong việc xử lý với Êli. Vì thế, ngay lập tức, khi ông ta nhìn thấy Êli, ngọn núi lửa đồi bại của ông ta đã bùng nổ trong những lời cáo giác, kêu gào, chửi rủa, chỉ trích và đổ thừa. Chúng ta cần phải giữ lấy một sự kiểm tra kỹ lưỡng tấm lòng, là mục tiêu của chúng ta, và nhắm vào bản chất của những gì chúng ta chất chứa trong đó. Trong Mathiơ  15:19 Chúa dạy chúng ta rằng giết người, tà dâm, trộm cướp, làm chứng dối, và vu khống đều ra từ tấm lòng. Solomon cảnh cáo chúng ta về điều nầy trong Châm ngôn 4:23: “Khá cẩn thận giữ tấm lòng của con hơn hết, vì các nguồn sự sống do nơi nó mà ra”.
“Có phải ngươi, là kẻ làm rối loạn Ysơraên chăng?” Với câu hỏi nầy, quí vị có thể nhìn thấy sự kích động, giận dữ, và đau thương cho sự kiêu ngạo của Vua Aháp khi ông không có khả năng tìm được Êli trong ba năm rưỡi kia không!?! Mặc dù ông ta làm Vua của Israel, ông ta rất bất lực. Điều nầy chỉ ra sự hiện hữu của những thứ xấu đã được dồn chứa lâu nay. Những lần tìm kiếm vô ích của ông ta để bắt Êli làm thương tổn sự kiêu ngạo của ông và châm dầu thêm vào cơn giận dữ và tức tối đã được chất chứa trong tấm lòng của ông ta. Sự kiêu ngạo của ông ta dễ dàng bị thương tổn như thế là vì ông ta đã sống một đời sống hư không và vô tín. Ông ta đang tìm kiếm sự an ninh và ý nghĩa của mình nơi những thứ khác hơn là trong Chúa và trong sự kêu gọi của Ngài. Vì lẽ đó, từ cái kho bẩn thỉu của ông ta, đã phát xuất ra lời vu cáo: “ngươi là kẻ làm rối loạn Israel”. Động từ Hy bá lai có nghĩa “quấy rối, lay động, gây rối”. Động từ nầy được sử dụng để nói tới việc khuấy nước. Êli đã tạo ra những làn sóng! Ông đã đối đầu dân sự với tội lỗi, sự thờ lạy hình tượng, sự chao đảo, và sự dửng dưng của họ đối với lời Đức Chúa Trời và sự kêu gọi của họ là dân sự của Đức Chúa Trời. Thay vì làm chứng cho các nước, họ đã bị các nước biến đổi (Xuất Êdíptô ký 19:4-6).
Bối cảnh nầy đã được lặp đi lặp lại xuyên suốt lịch sử nhiều lần. Bất cứ lúc nào người ta quấy rối khu vực an nhàn, thách thức quan điểm, các giá trị và nguồn tin cậy của chúng ta bằng Lời của Đức Chúa Trời và sự kêu gọi của Ngài, chúng ta thường phản ứng bằng sự tức tối và gò mình lại. Kế đó, giống như một cái máy tự bảo hộ, chúng ta gán cho họ là “hạng gây rối” thay vì xử lý với chính tấm lòng của chúng ta.
Cái đáng tội nghiệp nhất trong bối cảnh nầy là chẳng có một lời xưng tội hay ăn năn nào hết. Thậm chí sau ba năm rưỡi đói kém, qua Lời của vị tiên tri rao ra sự phán xét của Đức Chúa Trời, vẫn còn có sự thù nghịch và loạn nghịch lạnh lẽo. Những năm tháng nầy đã chứng tỏ cho thấy tình trạng bất lực của Baanh cùng các tiên tri của Baanh, tuy nhiên Aháp vẫn từ chối không chịu xây lại với Đức Giêhôva. Ông ta đã từ chối không xưng ra tội lỗi mình và thay vì thế đã sử dụng đấu pháp khác từ kho chứa bẩn thỉu hay túi rác mưu mẹo của mình. Ông ta đã xây qua trò chơi cũ rích chuyên đổ thừa, với hy vọng che đậy các dấu vết và lỗi lầm của chính mình.
Phần ứng dụng:
(1) Những người theo tôn giáo và bội đạo thờ hình lạy tượng, là những người theo đuổi một con đường ngược lại với chương trình của Đức Chúa Trời. Thậm chí khi đối đầu với tình trạng bất lực của con đường họ đã chọn, họ đã từ chối không đối mặt với dòng nhạc và cứ bám chắc vào các con đường sống của riêng mình.
(2) Khi chúng ta đương diện với những tấm gương tin kính và lẽ thật của Kinh Thánh, thay vì đáp ứng với sự ăn năn và tin tưởng, có phải chúng ta phản ứng bằng sự xung đột và vô tín không? Có phải chúng ta viện đến những giải pháp có tính bảo hộ rồi công kích sứ giả mà Đức Chúa Trời đã sai đến để bảo hộ và chúc phước cho chúng ta không? (đối chiếu Hêbơrơ 13:17).
(3) Và ai là các sứ giả nầy? Sứ giả của Đức Chúa Trời có thể là một người bạn thân, một bậc phụ huynh, một người chồng hay vợ, một trưởng lão hay chấp sự. Nhưng đối với một tấm lòng không biết ăn năn và chai lì, sứ giả trở thành một “kẻ gây rối”, một kẻ làm bại hoại gia đình và truyền thống. Ông ta là một người quấy rối khu vực an nhàn của chúng ta và như là một kết quả thường bị chửi rủa, bị lảng tránh, bị chỉ trích và còn nhiều thứ khác nữa.
Êli đã đáp ứng với lời tố giác của Aháp như thế nào? Đáp ứng của chúng ta như thế nào khi đối diện với sự đổ thừa và vu cáo như vậy? Có phải chúng ta thoả hiệp với lẽ thật chăng? Có phải chúng ta chạy đi trốn chăng? Có phải chúng ta phản ứng hay trả đủa hoặc ăn thua với người ta không? Chúng ta có truyền đạt lẽ thật bằng tình yêu thương không?
ÊLI TRẢ LỜI NHÀ VUA (18:18-19)
Mặc dù Vua Israel đông hơn và khi đối diện với Aháp, Êli đã đối diện với ông ta bằng những sự thật và vấn đề của Kinh Thánh. Đây không phải là trả đủa, mà là một hành động yêu thương đầy sự can trường dành cho Vua Aháp cùng mọi người có liên quan.
Êli từ chối lời kết án
“Chẳng phải tôi làm rối loạn Ysơraên đâu”. Hãy chú ý sự can đảm ở đây. Êli đang đứng trước mặt một vị vua, ông ta chẳng có một sự ngay thẳng đạo đức nào. Vua Aháp đã thù hận ông và Giêsabên muốn ông phải chết, tuy vậy chẳng có một chút sợ hãi nào trong lời nói của Êli, chỉ có lời công bố thật can đảm về lẽ thật mà thôi. Làm sao ông ông có được sự can trường ấy? Chúng ta có thể tiếp thu được điều chi từ sự việc nầy hầu cho có thể đối mặt được với những lời vu cáo của những người mà Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta phải phục vụ cho họ?
Êli đã có sự can đảm để đối mặt vì lòng tin cậy của ông đã đem đặt nơi Đức Giêhôva. Ông là một khâm sai và là tôi tớ của Vua các vua. Đấng Tối Cao của cả vũ trụ, là Đức Giêhôva Elohim, là Đấng đang nắm giữ mọi vì vua ở trong tay Ngài. Êli là người dũng cảm đứng kiên cường về điều nầy giống như lời ông nói trong 18.15 chứng tỏ. Là khâm sai và là tôi tớ của Đức Chúa Trời, ông vốn biết lẽ thật của Thi thiên 118:6: “Đức Giêhôva binh vực tôi, tôi chẳng sợ; loài người sẽ làm chi tôi?” Hoặc theo Hêbơrơ 13:6 chép: “Như vậy, chúng ta được lấy lòng tin chắc mà nói rằng: Chúa giúp đỡ tôi, tôi không sợ chi hết. Người đời làm chi tôi được?”
Êli dám kể ra sự thật chẳng có ai có thể chạm đến đời sống của ông trừ phi Chúa cho phép,  sự lổ của ông chính là sự lời cho ông (Philíp 1:21-23). Giống như David, ông vốn biết rõ sự vinh quang, danh tiếng, và tầm quan trọng của ông đã đến từ Đức Chúa Trời, chớ không phải đến từ loài người. “Sự cứu rỗi và sự vinh hiển tôi ở nơi Đức Chúa Trời; Hòn đá về sức lực tôi, và nơi nương náu mình cũng đều ở nơi Đức Chúa Trời” (Thi thiên 62:7).
Điều nầy đã cung ứng cho vị tiên tri sự can đảm và khích lệ. Nhưng có lý do khác nữa dành cho sự can đảm và lòng tin cậy của ông – ông là một người với một lương tâm tốt. Mặc dù không phải là không có tội, (như chúng ta vậy), ông vốn biết rõ ông không thoả hiệp với sự thờ lạy Baanh. Ông đã dũng cảm đứng lên chống lại sự thờ phượng đó, và đã trung tín cầu thay cho dân sự. Sự trung tín đối với Chúa cung ứng cho chúng ta lòng can đảm để phục vụ và để đương đầu từ những động lực đúng đắn. Hãy nhớ lời lẽ của Phaolô trong Galati 6:1: “anh em là kẻ có Đức Chúa Trời, hãy lấy lòng mềm mại mà sửa họ lại . . .”
Câu trả lời của Êli cho chúng ta thấy chẳng có gì sai trái khi đáp trả những lời vu cáo vì cớ bảo hộ cho chức vụ của một người và ủng hộ lẽ thật. Thế nhưng bởi sự từ chối nầy, không những ông đang ra sức bảo hộ cho cái tôi của ông hoặc làm thoả mãn nhu cần được khen ngợi và tán thưởng hầu cảm thấy tốt về mình (Đối chiếu I Côrinhtô 4:1-5).
Êli đối mặt nhà vua với nhiều vấn đề
“Bèn là vua và nhà cha vua. . .”. Êli đã nói, vua mới là kẻ thực sự gây rối của Israel vì người vợ phóng túng của vua, vì những lần truy hoan say sưa, trụy lạc, say đắm nhục dục của vua, vì vua thiếu công bình và ngay thẳng, và còn nhiều nữa. Hết thảy những điều nầy đều là sự thật. Hết thảy đều là gian ác và thường thì vị tiên tri luôn rao giảng nghịch lại các điều ác đó, nhưng chúng chủ yếu là chứng cớ hay triệu chứng của một nan đề thuộc linh sâu sắc hơn. Êli đã buộc tội Aháp và nhà cha vua về hai việc cùng nhau đứng như  gốc và ngọn hay nhân và quả.
Nhân
“bởi vì vua đã bỏ điều răn của Đức Giêhôva”. Nói cách khác, vua đã bất chấp và đã từ chối Lời của Đức Chúa Trời. Vua đã tìm cách sống độc lập đối với sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời. Điều nầy luôn luôn là gốc của nan đề, là nhân của mọi sự khác – tin cậy vào những năng lực riêng của mình. Vua Aháp đã sống độc lập đối với Đức Chúa Trời và các nguyên tắc sống của Ngài. Điều nầy đã bắt đầu ở trong vườn Êđen khi Ađam và Êva chọn lấy trái của cây biết điều thiện điều ác. Chúng ta hãy so sánh một số phân đoạn khác:
(1) Ôsê đã nói với Israel: “Dân ta bị diệt vì cớ thiếu sự thông biết. Bởi ngươi bỏ sự thông biết thì ta cũng bỏ ngươi, đặng ngươi không làm thầy tế lễ cho ta nữa; bởi ngươi đã quên luật pháp của Đức Chúa Trời mình, thì ta cũng sẽ quên con cái ngươi” (Ôsê 4:6).
(2) Êsai đã viết về xứ Giuđa, ông mô tả xứ nầy là “nước mắc tội, dân mang lỗi nặng nề, tông giống độc dữ, con cái làm bậy bạ”, rồi ông nói: “Hỡi các quan trưởng Sôđôm, hãy nghe lời của Đức Giêhôva. Hỡi dân Gômôrơ, hãy để tai vào luật pháp của Đức Chúa Trời chúng ta!” (Êsai 1:10).
(3) Giêrêmi cũng có cùng một sứ điệp ấy cho nhà Giuđa (đối chiếu Giêrêmi 2.4-13).
Quả
Hệ quả của việc xây khỏi Ngôi Lời được thấy trong mệnh đề kế tiếp trong lời truy tố Aháp của Êli: “và đã tin theo thần Baanh”. Hãy nhớ đạo Baanh là một hệ thống thờ lạy hình tượng rất được người ta ưa thích, ít nhất là một phần, vì hệ thống ấy bao gồm tình trạng phi luân rất nặng nề. Tôn giáo ấy quyến rũ kẻ đam mê xác thịt và những ham muốn về tình dục. Nhưng trên hết mọi sự, sự thờ hình lạy tượng tiêu biểu cho vật thay thế phát xuất từ sức tưởng tượng hư không của con người khi con người nổ lực sống xa cách Đức Chúa Trời.
Khi chúng ta xây đi không theo Chúa qua mối tương giao với Ngài bằng Ngôi Lời, chúng ta đang kinh nghiệm những gì chúng ta gọi là hành động vô nghĩa của linh hồn, hoặc theo đuổi cuộc sống qua các tật xấu của chính mình và vật thay thế được hiến cho trong thế gian quanh chúng ta. Khi chúng ta xây khỏi một mối tương giao của một người với Chúa, không còn nương cậy nơi Ngài qua Lời của Ngài, tự nhiên chúng ta hướng vào những gì chúng ta nghĩ sẽ làm cho chúng ta sung sướng, an toàn, và có ý nghĩa. Kinh Thánh xác định điều nầy là những sự tưởng tượng hư không của tấm lòng (Rôma 1:21; Êphêsô 4:17; Giêrêmi 2:4-5).
Khi chúng ta xây khỏi Ngôi Lời cùng phần ứng dụng cẩn thận Ngôi Lời đó,  chúng ta hướng sang các giải pháp của chúng ta (hay của thế gian) với một nổ lực hầu điều khiển những nỗi sợ hãi, sự cô độc và nỗi khổ của chúng ta. Một số người hướng sang chủ nghĩa vật chất, có người chuyển sang thờ lạy hình tượng. Nhiều người khác hướng vào tôn giáo cùng chủ nghĩa hình thức. Có người vùi đầu vào làm việc và làm việc, họ theo đuổi các nấc thang tìm kiếm danh vọng, địa vị, quyền thế. Ở giữa mọi điều nầy, người ta sử dụng phần biện bác của họ, lẫn tránh mọi cơ cấu để xử lý với sự chối bỏ, sợ hãi, xung đột cá nhân, các vấn đề gia đình, và thậm chí các vấn đề quốc gia nữa.
Hết thảy các nổ lực hư không nầy hầu nắm lấy cuộc sống, chúng thiết lập lối sống độc lập, sống không có đức tin nơi Chúa và các nguyên tắc của Ngài dành cho sự sống đã ban ra cho chúng ta  trong Kinh Thánh.
Mọi con đường giả dối dẫn tới vui mừng, . . . nói chung có một việc như sau: chúng tiêu biểu các đấu pháp dành cho cuộc sống ở một chừng mực mà chúng ta có thể nắm bắt được. Chúng không đòi hỏi chúng ta phải đem sự đầu phục hay nương cậy ra mà đầu hàng. Sứ điệp của Đức Chúa Trời là nhất định: thốt ra sự nương cậy là con đường dẫn đến sự thoả lòng.
PHẦN KẾT LUẬN:
Trong  Giacơ 1:21-27, Kinh Thánh cảnh cáo chúng ta về sự giả hình trong cách thực hành tôn giáo của chúng ta. Chúng ta có thể sống rất tôn giáo. Chúng ta có thể trở thành hạng tín đồ tin Kinh Thánh, dạy Kinh Thánh, nói Kinh Thánh, là hạng người nghiêm ngặt đối với Kinh Thánh, là hạng người nói về sự tin cậy Chúa và thậm chí khuyên nhiều người khác làm theo như vậy nữa, trong khi vẫn cứ sống bởi những phát minh có tính cách bảo hộ riêng tư,  độc lập theo ý riêng mình. Hãy chú ý Giacơ đã nói gì ở 1:26 về con người tự lừa dối mình. Người ấy “tưởng mình tin đạo”. Người ấy đi nhà thờ, tin theo Kinh Thánh, sử dụng kỹ thuật cao, cầu nguyện, v.v… “mà không cầm giữ lưỡi mình”. Cái lưỡi là một phong vũ biểu rất tốt của tấm lòng và những gì tấm lòng có. Khi chúng ta không kềm hãm được cái lưỡi của chúng ta, khi chúng ta than phiền, phàn nàn, rên rỉ, đổ thừa cho người khác bằng cách nhắm vào lầm lỗi của họ (tránh không nhìn vào lầm lỗi của mình), khi chúng ta chỉ trích phê bình và nói vu, hoặc mất tiết độ, kêu gào, hay làm bất cứ việc chi khi chúng ta không còn tự chủ nữa, chúng ta làm vậy khi tin rằng các hành động nầy sẽ giải quyết vấn đề của chúng ta. Chúng ta nghĩ chúng sẽ bảo hộ chúng ta trong một số phương thức nào đó chống lại thương tổn, hay tự dựng lên bản tự đáng giá mình.
Vậy thì mục tiêu là gì? Đây là các phát minh tự bảo hộ của tâm trí chúng ta, chúng ta đặt lòng tin vào đấy, nhưng giống như một người nương vào cây gậy, chúng làm hại hơn là nâng đỡ. Chúng là những đấu pháp của cuộc sống độc lập. Đây không phải là những hành động của đức tin và nương cậy vào Đức Chúa Trời. Vì thế Giacơ nói thêm: “. . .nhưng lại lừa dối lòng mình, thì sự tin đạo của người hạng ấy là vô ích”. Trong các trường hợp như thế, các sinh hoạt tôn giáo của chúng ta chỉ lừa dối chúng ta mà thôi. Tại sao vậy? Vì chúng ta không thực sự bước đi bởi đức tin trong sự hiện diện và sự tiếp trợ của Đức Chúa Trời. Chúng ta đang sống bởi đức tin trong mọi kế sách của chúng ta.
I Các Vua 18:19-20 không những đối chiếu hai nhân cách khác nhau, mà cũng là hai đường lối sống khác nhau nữa.
(1) Một bên là người của thế gian. Một bên là người của Ngôi Lời.
(2) Một người bước đi độc lập loạn nghịch công khai với Đức Chúa Trời. Một người bước đi nương cậy nơi Chúa với sự thuận phục hạ mình.
(3) Một người nương vào những vật thay thế của thế gian, những phát minh theo lý trí của người ấy. Một người tin theo các nguyên tắc cùng mọi lời hứa trong Kinh Thánh.
(4) Một người hay tức tối, cay đắng, sợ hãi, thất bại, và thất bại trong mọi trách nhiệm của mình. Một người thì dũng cảm và kết quả cho Chúa.
Những câu hỏi có tính cách ứng dụng mà chúng ta phải tự hỏi mình:
(1) Cuộc sống của tôi có giống với lối sống của Aháp hay Êli?
(2) Tôi có bằng lòng, bởi đức tin, tình yêu thương, và vì những lý do đúng đắn, mà đối đầu với những người mà Đức Chúa Trời đã đưa đến trong cuộc đời tôi với lẽ thật của Đức Chúa Trời không?
(3) Những điều chất chứa trong tấm lòng tôi là tốt hay xấu?
(4) Có phải tấm lòng tôi đầy dẫy với những điều tốt gồm mọi giải pháp của Đức Chúa Trời, hay nó gồm toàn các giải pháp và đấu pháp xấu xa của con người?

***


Bài 9: I Các Vua 18:7-15: "ÊLI CHĂM SÓC CHO ÁPĐIA: "SỰ ĐỐI ĐẦU TRÊN NÚI CẠTMÊN" (Bối cảnh 3)


Bài 9:
ÊLI CHĂM SÓC CHO ÁPĐIA 
(I Các Vua 18:7-15)
Sự đối đầu trên Núi Cạtmên (Bối cảnh 2)
PHẦN GIỚI THIỆU:
Chúng ta hãy ôn lại lẽ đạo và mục đích của I Các Vua 18. Đây là câu chuyện nói tới sự đối diện của Êli với các thầy tế lễ Baanh trên Núi Cạtmên. Nhưng quan trọng như nhau, đây cũng là câu chuyện nói tới sự kết thúc của ba năm rưỡi hạn hán trong xứ Israel. Thực ra, sự đối đầu trên Núi Cạtmên đã được ấn định để tỏ ra rằng cơn hạn hán không những là một sự trùng khớp không thích đáng của thiên nhiên, mà còn là phần kỷ luật của Đức Giêhôva là Đức Chúa Trời có một và chân thật duy nhất. Cơn mưa và sự kết thúc của nạn hạn hán, cả hai đều là công việc của Đức Giêhôva, chớ không phải của thần Baanh, được gọi là thần sấm, thần mưa, và thần trúng mùa.
Trong quá trình phát triển câu chuyện nầy và lẽ thật của nó, một số các sự cố nhỏ hơn đã diễn ra và mỗi sự cố đều nói ra sứ điệp riêng của nó. Nói cách khác, có bức tranh lớn, là cốt chuyện chính của câu chuyện, và cũng có những câu chuyện nhỏ hơn, mỗi câu chuyện có bài học riêng của nó. Là những tín hữu trong Đấng Christ, hết thảy chúng ta đều là một phần của bức tranh lớn bao gồm nhiều câu chuyện nhỏ, mỗi câu chuyện với những cơ hội cho sự lớn lên, phục vụ, và làm vinh hiển cho Đức Chúa Trời. Chúng ta muốn tập trung sự chú ý của mình vào sự gặp gỡ của Êli với Ápđia, một tín hữu đồng sự, và nhìn xem Êli đã chăm sóc cho ông ta như thế nào!?!
Ba năm rưỡi đã trôi qua từ khi Êli đặt chân lên các nấc thang của cung điện rồi vào trong phòng có ngai vàng của Vua Aháp để loan báo sự thật sẽ không có mưa xuống nếu vị tiên tri không nói nữa, dĩ nhiên, đó là khẩu pháo miệng của Đức Giêhôva. Những đám mây cùng cơn mưa đã bị lái ra khỏi xứ Israel, và nỗi đau khổ trong xứ đã ngày càng nặng nề thêm.
Aháp đã tìm kiếm cả trong xứ cùng các quốc gia lân cận để bắt cho kỳ được Êli, nhưng vô ích mà thôi. Ông ta đã giận dữ và đã thất bại qua những nổ lực hư không của mình khi truy tìm vị tiên tri (18:10). Hơn nữa, Giêsabên đã thực thi liên tục sự báo thù trên các vị tiên tri của Đức Giêhôva, như thể họ là đồng loã của Êli và cái chết của họ không cứ cách nào đó sẽ đem lại sự kết thúc cho cơn hạn hán (18.4). Có lẽ bà ta nghĩ rằng nếu hết thảy các đại biểu của Đức Giêhôva đều bị tiêu diệt, quyền lực của Ngài sẽ không còn thực thi nữa trong xứ. Đây là sự khát khao của bà ta chủ yếu là báo thù và chà đạp hết mọi sức kháng cự đối với ý muốn xảo quyệt của bà ta hòng giết hết các vị tiên tri.
Hết ngày chán chường nầy sang ngày mệt mỏi khác cùng với mặt trời mọc và lặn trên bầu trời không gợn một đám mây trên một đất khô cằn. Không có một dấu hiệu thoải mái nào hết. Aháp đã ngụ ở Samari lo trấn áp các vấn đề do cơn hạn hán gây ra trong khi Giêsabên ở trong cung điện mùa đông tại Gítrêên (đối chiếu 18:45-46; 21:1-2).
Đồng thời, Lời của Đức Giêhôva đã đến với Êli, Chúa truyền cho ông phải ra mắt Vua Aháp. Điều nầy có nghĩa là đã đến lúc bày tỏ ra quyền phép của Đức Chúa Trời chân thật và để đưa một nước tới chỗ quyết định phải chọn lấy Đức Giêhôva. Vì lẽ đó, trong những câu nối theo sau, Đức Chúa Trời đã hành động tạo ra cuộc gặp gỡ với Aháp qua các tôi tớ khác của Đức Chúa Trời có tên là Ápđia. Thế nhưng, dường như đây luôn luôn là trường hợp, Đức Giêhôva hành động trên nhiều tuyến cùng một lúc. Không những Ngài đang hành động để đưa Êli và vua Aháp đến với nhau, nhưng Ngài sẽ sử dụng Êli trong đời sống của Ápđia hầu cũng cố đức tin cùng mở rộng khả năng của ông ta cho sự phục vụ. Câu chuyện nầy tỏ ra cho chúng ta thấy làm thể nào, trong quá trình sử dụng chúng ta theo mục tiêu chính của Đức Chúa Trời, Đức Giêhôva cũng muốn sử dụng chúng ta với nhiều người khác, là những người mà Ngài đưa vào đời sống của chúng ta. Sự sống đầy dẫy những cơ hội cho sự phục vụ nếu chúng ta chỉ đưa mắt nhìn xem chúng!
ÊLI GẶP GỠ ÁPĐIA (18:7)
Ápđia là quan gia tể cho nhà Vua; một viên quản gia và là nhà quản lý cung điện cùng mọi vụ việc trong cung điện. Điều nầy có ý nói ông có một địa vị cùng trách nhiệm lãnh đạo cao (câu 3a). Ông cũng là một tín đồ biết kính sợ Chúa và là một người có đức tin (câu 3b). Vì cớ đức tin, ông đã đem giấu 100 vị tiên tri tránh khỏi Giêsabên. Tuy nhiên, giống như hết thảy chúng ta, đức tin ông cần phải tấn tới thêm và trưởng thành. Và ông cần sự khích lệ.
Đức Chúa Trời có mặt trong việc làm căng chúng ta ra hầu trở thành những chiếc bình hiệu quả hơn cho các mục đích của Ngài. Tuy nhiên, chúng ta thích ở lại trong khu vực an nhàn của mọi việc làm thường nhật nhỏ bé của mình, gồm nơi làm việc của chúng ta và thậm chí địa vị của chúng ta trong chức vụ thuộc linh nữa. Đây là trường hợp với Ápđia, nhưng Chúa có chương trình khác dành cho ông – y như Ngài dành cho chúng ta vậy. Đây là chương trình của Đức Chúa Trời khi sử dụng vị tiên tri trẻ tuổi hơn đến loan báo sự hiện diện của Êli cho Aháp biết. Thích ứng với mọi điều kiện, đây chẳng phải là một thách thức nhỏ đâu.
“Ápđia đương đi đường, thì. . .”. Ápđia đối diện với sự thử thách nầy vào lúc nào và thách thức trở thành sứ giả của Đức Chúa Trời trong sự hiện diện của Êli trước mặt Aháp? Trong khi ông đương lo liệu công việc của nhà Vua. Đây là cuộc sống. Đây là chỗ những thử nghiệm về sự vâng phục và thách thức xảy đến  -- trong khi chúng ta chưa dính dáng gì trong các vụ việc hàng ngày của cuộc sống. Đây là chỗ chúng ta gặp gỡ dân sự, các nhu cần, và đây là chỗ Đức Chúa Trời muốn hành động để mở rộng đức tin của chúng ta.
Có bao giờ quí vị chú ý, thấy rằng những thử nghiệm của cuộc sống thường không xảy đến khi chúng ta có mặt trong nhà thờ, hết thảy đều thoải mái và buồn ngủ. Cho phép tôi xin lỗi! Tôi muốn nói, khi lắng nghe những bài ca thánh thật cảm động và suy gẫm các sứ điệp. Không! Thường thì chúng đến khi quí vị chưa bị tác động bởi các bối cảnh làm cho quí vị phải cảm động. Những thử nghiệm và thách thức xảy đến khi chúng ta phải đối mặt với những tình huống giống như cơn hạn hán, với những lời chỉ trích cá nhân, với sự cám dỗ, và mọi áp lực của cuộc sống. Thế rồi động lực, lòng can đảm, và sự vâng phục của chúng ta thực sự phải đến từ nơi Chúa và từ lòng tin vào Ngài.
Hết thảy chúng ta đều có xem những cuốn phim cũ hoặc mới nói về Hải quân chúng ta đang đậu dài theo bờ biển Guadalcanal, Iwo Jima hay Normandy. Thường thì khi bài hát trổi lên giống như bài From the Halls of Montezuma, hay bài quốc thiều của chúng ta. Bài hát nầy kích thích tình cảm của chúng ta nhưng trong các cảnh ngộ sống thực, thì chẳng có chút nhạc điệu nào hết. Ở đấy toàn là máu và sự can đảm, và nếu không có kỷ luật và sự huấn luyện chặt chẽ, những người nầy sẽ  ngã nhào hết. Họ có sợ hãi không? Nhất định rồi! Nhưng chính sự tập huấn của họ và tính bền bĩ của trí khôn đã cung ứng cho họ đức tin và lòng can đảm khiến cho chúng ta đứng vững trên mấy bờ biển đó.
Để minh hoạ rõ hơn về điều nầy, chúng ta hãy so sánh Êli và Ápđia:
(1) Cả hai đều là người tin Chúa, cả hai đều yêu mến Ngôi Lời và chính Đức Giêhôva. Cả hai đều hầu việc Chúa và phục vụ người khác, và đã tỏ ra lòng can đảm. Ápđia cần phải có lòng can đảm lẫn đức tin mới dám che giấu 100 vị tiên tri và lo nuôi dưỡng họ.
(2) Tuy nhiên, Êli vừa đạt tới chỗ sửa soạn và sống cô độc với Chúa và với sự củng cố tại nhà của người đờn bà goá và đứa con trai của bà ta. Vì thế, khi sự kêu gọi bảo phải đi ra mắt Aháp, ông liền chổi dậy và ra đi với lòng tin cậy nơi Đức Giêhôva. Niềm vui của ông là hầu việc Chúa và lo hoàn thành mục đích của Ngài.
(3) Với Ápđia, sự thể hoàn toàn khác biệt. Ông đang sinh hoạt với những người không tin Chúa và đang sống ở giữa nơi thờ lạy hình tượng. Điều nầy chẳng có gì là sai trái. Mặc dù chúng ta không thuộc về thế gian, Đức Chúa Trời đã kêu gọi chúng ta phải nhập thế và bước vào nơi làm việc để bày tỏ ra tình yêu của Đức Chúa Trời và đời sống mới mà chúng ta đang có trong Cứu Chúa. Còn Ápđia có lẽ đã sống mà không có một mối tương giao gần gũi cùng sự khích lệ của các tín hữu mạnh mẽ khác. Thì giờ của ông với những vị tiên tri được che giấu kia chỉ là sự khích lệ, nhưng gần như rất ngắn ngủi và rời rạc.
Câu 13 cho thấy Ápđia là nạn nhân của hội chứng đắc thắng trong quá khứ. Ông đã nhìn lại đàng sau xem thấy những gì ông đã làm cho Đức Chúa Trời thay vì tập trung vào chính mình Chúa cùng những gì Đức Chúa Trời đã làm qua ông. Khi hôm qua, ngày nay, cho đến  đời đời Chúa không hề thay đổi, việc nhớ lại quá khứ cũng có lợi ích bao lâu chúng ta sử dụng nó để nhắc cho chúng ta nhớ những gì Đức Chúa Trời có khả năng làm cho hôm nay hay ngày mai. Ápđia vốn chưa sửa soạn cho sự gặp gỡ của mình với Êli, nhưng ông rất cởi mở, tích cực và ông trở thành một trong những công cụ được chọn của Đức Chúa Trời trong tấn tuồng nầy, nó giúp sửa soạn đường lối cho Núi Cạtmên. Nhưng trước hết, ông cần tới sự khích lệ của Êli. Thực ra, điều nầy vạch ra nhu cần lẫn nhau của chúng ta cùng sự khích lệ, sự thách thức mà chúng ta nhận lãnh từ từng người khác trong thân thể của Đấng Christ.
“Vậy, Êli ra đón ông”[theo bản Kinh Thánh Anh ngữ]. Như trong chương 17, chữ “behold” (vậy) ở đây nói đến một lý do. Một lần nữa đây là từ Hy bá lai hinneh, một thán từ (interjection) được sử dụng 942 lần trong Cựu ước để lôi kéo sự chú ý. Từ nầy có ý nói “hãy nhìn đây!” “hãy xem đây!” Nó được sử dụng để chỉ ra một sự việc và để nhấn mạnh phần thông tin nối theo sau. Có gì quan trọng ở chỗ Êli gặp ông khi “Ápđia đương đi đường?”
Thứ nhứt, nó chỉ ra một cách mạnh mẽ sự thật đáng yêu về sự quan phòng của Đức Chúa Trời. Đây là Êli đang ở trong lãnh thổ thù nghịch được sai phái đi hoàn thành ý chỉ của Đức Chúa Trời và bày tỏ ra một trong các mục đích của Đức Chúa Trời dành cho đời sống ông. Êli không phải đi vào thủ đô, là thành Samari. Thay vì thế, Đức Chúa Trời đã sắp xếp trước một cuộc gặp gỡ với một môn đồ trung tín của Chúa, là người đã tỏ ra lòng can đảm, và là người tiếp cận và được Vua tin cậy như một ít người có. Đây không phải là chuyện may rủi đâu!
Đại úy Johnson đang phục vụ trong vai trò giáo sĩ ở Nam Thái Bình Dương trong Đệ II Thế Chiến. Ông sửa soạn đi dự một cuộc đột kích đánh bom bất ngờ trên các hòn đảo do quân thù chiếm đóng cách đấy vài trăm dặm. Sứ mệnh thành công hoàn toàn, nhưng trên đường trở về đơn vị chiếc máy bay mất thăng bằng và máy móc không còn hoạt động được nữa. Một cuộc hạ cánh an toàn được thực hiện trên một hòn đảo lạ. Sau đó họ mới hay rằng kẻ thù ở chung quanh chỉ cách đấy có một dặm rưỡi mà thôi, tuy nhiên cuộc hạ cánh không bị họ phát hiện.
Viên trung sĩ  cán bộ đến gặp vị giáo sĩ rồi nói: “Thưa giáo sĩ, ông đã nói cho chúng tôi biết trong nhiều tháng trời về nhu cần cầu nguyện và tin Đức Chúa Trời đáp trả lời cầu nguyện trong thì gian truân, và hãy xin Ngài thực hiện điều đó ngay đi. Chúng ta không còn nhiên liệu, căn cứ thì cách xa mấy trăm dặm và chúng ta gần như bị kẻ thù bao vây rồi”.
Johnson bắt đầu cầu nguyện và bám lấy mọi lời hứa của Đức Chúa Trời và tin rằng Đức Chúa Trời sẽ làm ra một phép lạ. Đêm xuống, và vị giáo sĩ cứ tiếp tục lời cầu nguyện nhiệt thành của mình. Khoảng 2 giờ sáng, viên Trung sĩ thức giấc, anh ta cảm thấy buộc phải đi ra phía bờ biển. Anh ta khám phá ra một xà lan bằng kim loại bị trôi giạt vào bờ -- [chứa đầy các thùng] octane gas. Trong mấy giờ đồng hồ, toàn bộ phi hành đoàn đã về tới đơn vị an toàn.
Một cuộc điều tra cho thấy rằng viên hoa tiêu của chiếc tàu chở dầu của Mỹ, sau khi thấy tàu của mình bị nước tràn vào, đã đẩy nhiều thùng dầu xuống nước hầu thu nhỏ nguy hiểm trong trường hợp bị ngư lôi đánh. Nhiều thùng dầu được đặt trên các chuyến xà lan và nó trôi đi sáu trăm dặm từ chỗ Johnson và chiếc máy bay bị buộc phải đáp xuống. Đức Chúa Trời đã lái một trong các chuyến xà lan nầy qua gió và luồng nước  rồi cặp bờ cách những người lâm cảnh khó khăn kia chừng 50 bước chân mà thôi!
Thứ hai, sự việc nhắc cho chúng ta nhớ tới sự quan phòng đầy tình yêu thương của Đức Chúa Trời (I Phierơ 5:7), và nếu Đức Chúa Trời sai chúng ta đi làm một việc gì đó, Ngài sẽ tiếp trợ cho các tài vật mà chúng ta có cần (Philíp 4:13, 19).
“Ápđia nhìn biết người, sấp mình xuống đất”. Trong sách Khải huyền, khi sứ đồ Giăng sấp mình xuống trước mặt thiên sứ đương công bố tiệc cưới của Chiên Con, thiên sứ phán: Hãy giữ lấy, đừng làm vậy; ta là bạn tôi tớ với ngươi và với anh em ngươi…thờ lạy Đức Chúa Trời” (Khải huyền 19:10; cũng đối chiếu 22:8-9). Các hành động của Giăng rơi vào lãnh vực thờ lạy dành cho vị thiên sứ liên quan tới mặc khải kỳ diệu nầy. Vì Êli không chỉnh đốn hành động của Ápđia, điều nầy được xem như sự kính trọng dành cho vị tiên tri là người của Đức Chúa Trời với lời của Đức Chúa Trời đang chu tất sứ mệnh của Đức Chúa Trời. Khi ông gọi Êli là chúa mình trong câu 7, cách gọi nầy cho thấy rằng Ápđia đã thuộc về trường tiên tri, trong đó Êli là hiệu trưởng. Đây là một từ ngữ tỏ ra sự tôn kính và công nhận chức năng lãnh đạo của Êli trong xứ Israel.
ÊLI CẦN SỰ GIÚP ĐỠ CỦA ÁPĐIA (18:8)
Giống như những người kia trong Đệ II Thế Chiến đã xem xà lan dầu do Đức Chúa Trời sai đến, cũng một thể ấy Êli rõ ràng đã nhìn thấy Ápđia như được Đức Chúa Trời sai đến vậy. Điều nầy thực ra rất hợp lý, con người đường hoàng đem lời đến cho nhà Vua. Nhưng quí vị cũng nên lưu ý rằng Êli đã không cầu xin một phép lạ. Ít nhất, chẳng có chỗ nào ghi chép về sự nầy. Ông không xin Đức Chúa Trời ban cho nhà Vua một sự hiện thấy rồi đến mà gặp gỡ ông. Ông đã sử dụng các phương tiện cùng những cơ hội mà Đức Chúa Trời sai đến trong đường lối của ông  --  và cũng một thể ấy đối với chúng ta.
Điều nầy minh họa nguyên tắc nhận sự giúp đỡ từ những con người tùy theo học vấn, ân tứ, tài khéo, cơ hội, và dĩ nhiên, sự sẵn sàng của họ đối với Chúa. Đôi khi, như chúng ta đang nhìn thấy ở đây, người ta đang cần sự khích lệ và sự hiểu biết Kinh Thánh từ chúng ta hoặc lời hứa giúp đỡ và sự trung tín của chúng ta.
ÁPĐIA PHẢN ỨNG VỚI SỰ SỢ HÃI VÀ CÁO LUI (18:9-14)
Trong một buổi nhóm kết hợp giữa các chấp sự và trưởng lão ở chức vụ của tôi, chúng tôi đang xem xét một số việc sẽ giữ gìn chúng tôi là tráng niên và là một Hội Thánh tránh được việc chuyển hướng tư tưởng – đối với những gì Đức Chúa Trời kêu gọi chúng tôi phải trở thành. Một trong những việc được nhắc tới là nỗi sợ mà chúng tôi thường đối diện với khi bị yêu cầu phải xem xét các chức vụ hay trách nhiệm nhất định nào đó. Hết thảy chúng ta đang đối diện với nan đề sợ hãi ở nhiều thời điểm. Chúng ta sợ chúng ta thiếu thốn mọi thứ có cần để lo liệu công việc. Chúng ta sợ mình phải trả giá quá cao. Sợ phải tốn thì giờ, không được an nhàn, hoặc những việc mà chúng ta thích làm.
Trong thời điểm bắt bớ thực sự, hầu việc Chúa sẽ trở thành mối đe doạ cho sinh mạng, như trường hợp của Ápđia. Còn đối với hầu hết chúng ta, những lo sợ của chúng ta nói chung đều rơi vào ba phạm trù: (a) sợ thất bại, (b) sợ bị chối bỏ, (c) sợ mất mạng, nghĩa là, sợ chúng ta phải bỏ đi thứ mà chúng ta nghĩ chúng ta phải sống hạnh phúc. Cái giá của sự chối bỏ nầy có thể sẽ là sự nhục nhã hoặc có người nghĩ chúng ta kỳ cục hay câm, không biết nói, mất việc làm, hoặc thậm chí mất phương thức sống của một người.
Sợ hãi có thể làm tê liệt và vì thế nó trung lập hoá chúng ta. Sợ hãi có thể giữ chúng ta không dám mạo hiểm và sẵn sàng cho Chúa. Đây là những gì đang xảy ra cho Ápđia. Nhưng chúng ta đang có một Đức Chúa Trời toàn năng, Ngài đã hứa cùng đứng với chúng ta hầu cho chúng ta đắc thắng những cơn sợ hãi của mình. Kinh Thánh nói cho chúng ta biết trong II Timôthê 1:7: “Vì Đức Chúa Trời chẳng ban cho chúng ta tâm thần nhút nhát [sợ hãi], bèn là tâm thần mạnh mẽ, có tình thương yêu và giè giữ”. Chúng ta cần tới sự khích lệ của người khác, như đã xảy ra ở đây. Chúng ta cần quyền phép của một đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh, đầy dẫy Ngôi Lời. Chúng ta cần tình yêu chân chính sẵn lòng hy sinh cho Chúa và tha nhân. Và chúng ta cần tới kỷ luật cho tâm trí sao cho tư tưởng luôn nhắm vào các lời hứa cùng mọi nguyên tắc trong Kinh Thánh.
Suy tưởng của Ápđia đang làm suy yếu khả năng của ông ta khi đáp ứng với lời yêu cầu và nhu cần của Êli. Điều nầy cho chúng ta thấy chúng ta cần phải bắt nhốt từng tư tưởng và suy nghĩ với sự tỉnh thức về các lời hứa và những nguyên tắc của Lời Đức Chúa Trời.
(1) Dường như có sự hiểu sai về những lần thử thách hay được phân công việc khó. Ông đã nhìn thấy chúng là một trong các phương tiện của Đức Chúa Trời dùng để hình phạt tội lỗi (câu 9). Điều nầy minh họa nhu cần của chúng ta muốn nhìn biết Lời Đức Chúa Trời, hiểu biết ân điển của Ngài, và giữ các tường trình ngắn với Chúa về tội lỗi trong đời sống của chúng ta. Chắc chắn, một trong những lý do cho sự chịu khổ là kỷ luật đến từ bàn tay của một Đức Chúa Trời yêu thương, Ngài đang tìm cách để huấn luyện con cái Ngài. Nhưng như đã được nói ra trong các bài học trước, đây chỉ là một trong nhiều lý do mà thôi.
(2) Có sự nhìn sai tiêu điểm của ông. Ápđia đã hướng mắt mình vào các nan đề hơn là nhìn vào Đức Giêhôva. Một tiêu điểm sai biến nhiều đụn đất thành núi và theo nhận định của chúng ta biến Chúa ra một ngọn đồi nhỏ. Đây là kỹ nguyên cào cào thời xưa ở Dân số ký 13.
(3) Có một sự chuẩn bị sai trong lý trí của ông. Ông không hướng lý trí hay tư tưởng của mình theo những kiểu mẫu gồm các lời hứa và nguyên tắc có trong Ngôi Lời, khi chúng ta bị thách thức phải làm theo Philíp 4:8 và II Côrinhtô 10:4-5.
Khi chúng ta không hướng vào thân vị của Đức Chúa Trời và đòi hỏi các lời hứa của Đức Chúa Trời giống như Ápđia đã làm, chúng ta khởi sự ra vẻ ta đây về mọi sự  có thể hay đang xảy ra. Chúng ta sẽ mắc chứng hoang tưởng. Ápđia đã hình dung Êli sẽ biến mất và ông trông thấy mình sẽ bị treo trên các cây mộc hình (câu 12). Khi chúng ta không làm chủ được lý trí của mình bằng các nguyên tắc cùng những lời hứa của Lời Đức Chúa Trời, những sự tưởng tượng của chúng ta sẽ làm tê liệt chúng ta bằng nỗi sợ hãi.
Aháp đã mong mỏi và tìm kiếm có hệ thống để bắt cho kỳ được Êli, vì thế Ápđia chỉ có thể tưởng tượng vị tiên tri sẽ bị đem đi một cách lạ lùng ra khỏi nơi trú ẩn, đúng lúc giải cứu ông không bị các sứ giả của Aháp phát hiện. Thực ra, chúng ta biết rằng đây không phải là trường hợp; nhưng người nào đã đánh mất thói quen tìm kiếm Đức Chúa Trời mỗi ngày trong cuộc sống – là trường hợp với những ai thích nghi với thế gian – thường có thói quen tìm kiếm những việc lạ, hay các phép lạ, rồi vì thế trở nên mê tín và vô tín cùng một lúc.
(4) Cũng có một sự đặt để độ tin cậy hay đức tin không đúng vị trí. Dường như ông đang tin vào việc làm của mình trong quá khứ hơn là trong thực tại sự hiện diện và quyền phép của Đức Chúa Trời. Sau khi nhận biết các ân tứ và tài khéo Đức Chúa Trời ban cho là quan trọng cho lòng tin cậy vào ý chỉ của Đức Chúa Trời và khả năng để làm một công việc. Cơ sở chính cho sự hiệu quả và khả năng của chúng ta để làm một công việc, không bao giờ là thành tích, học vấn của chúng ta mà là Đức Chúa Trời và sự thành tín của Ngài – LUÔN LUÔN là như thế.
ÊLI CẤT BỎ NỖI SỢ HÃI CỦA ÁPĐIA (18:15)
Ông tuyên bố ra Thân Vị của Đức Chúa Trời
Điều nầy được thấy trong câu: “Giêhôva Đức Chúa Trời hằng sống”. Êli vốn tin quyết vào sự hằng sống của Đức Giêhôva cùng chức vụ của Đức Giêhôva vạn quân, Ngài là Đấng có tất cả các đạo quân thiên sứ ở trên trời tùy theo lịnh sử dụng của Ngài. Bởi lời thề, Êli đã hướng con mắt của Ápđia vào Chúa rồi khẳng định với ông rằng chính đời sống của ông được sắp xếp theo sự kiện nầy.
Là tín đồ trong Đấng Christ và đặc biệt là cấp lãnh đạo, chúng ta cần phải giúp đỡ cho nhiều người khác nhìn thấy vẻ oai nghi của Chúa và nhìn thấy rằng đời sống của chúng ta được vẻ oai nghi đó sắp xếp và lèo lái. Điều nầy minh hoạ lý do tại sao là quan trọng cho các cấp lãnh đạo phải trở làm gương về sự ngay thẳng, những người nam và nữ nào đang sống trung tín và kiên quyết. Một trong những dấu hiệu của tình trạng suy thoái trong một Hội Thánh hay trong một quốc gia là khi cấp lãnh đạo hành động như con nít vốn thất thường, chúng bị khống chế bởi ý tưởng và sự tưởng tượng riêng của chúng (đối chiếu Êsai 3.4).
Ông tỏ ra sự kêu gọi và sự đầu phục của ông
Điều nầy được thấy rõ qua câu “là Đấng ta phục sự”. Ở đây Êli đoan chắc với Ápđia rằng trên hết mọi người khác, ông là một trong những người của Đức Chúa Trời và ông đã đứng phục sự hầu việc Chúa. Ông không bị khống chế bởi lo lắng hay những ý nghĩ thất thường. Các tín đồ cần phải đưa ra bằng chứng cho thấy họ đang ở dưới lịnh lạc của Đức Chúa Trời, cách bố trí của Đức Chúa Trời, và thực sự các đại biểu của Ngài đã bị quản chế bởi những lẽ thật  đời đời của Đức Chúa Trời và vì thế rất đáng tin cậy.
Ông hứa không làm cho Ápđia phải bị tổn thương
Qua câu nói: “Chính ngày nay ta sẽ ra mắt Aháp”, Êli đang bảo đảm với Ápđia rằng ông hy vọng nơi Ápđia. Ông sẽ không làm cho Ápđia bị tổn thương và sẽ có mặt y như lời hứa. Phần nhấn mạnh ở đây là: “Ông có thể tin nơi tôi vì tôi đang tin vào Chúa”. Ápđia vốn biết từ đời sống và tiểu sử của vị tiên tri, ấy là tiên tri Êli rất đáng trượng. Sự trung tín là một đức tính có cần. Vậy thì sự trung tín là gì? Đó là sản phẩm của một sự đầy dẫy đức tin trong cuộc sống.
Ápđia phản ứng với lòng can đảm (18:16a)
Phần lo sợ và bất an của Ápđia sở dĩ có là do sự kiện ông không biết chắc ý chỉ của Đức Chúa Trời hay những gì sẽ diễn ra. Ông cần sức tác động của chức năng lãnh đạo của Êli qua tấm gương và sự khích lệ của vị tiên tri. Hết thảy chúng ta đều khác nhau trong vai trò lãnh đạo, nhưng có một nhận thức trong đó chúng ta mỗi người đang có loại ảnh hưởng trên nhiều người khác như thầy tế lễ, là hạng người có chức năng giống như muối và ánh sáng, và là hạng người trở thành một nguồn khích lệ cho những kẻ ở chung quanh chúng ta. Như chúng ta đang trông thấy ở phân đoạn nầy, Đức Chúa Trời muốn chúng ta phải ý thức trước các nhu cần  và phải trở thành những tấm gương bằng cách bày tỏ ra thực tại của Đấng Christ trong Cơ đốc giáo có quyền phép. “Vậy thì anh em hãy khuyên bảo nhau, gây dựng cho nhau, như anh em vẫn thường làm” (I Têsalônica 5.11).
Phần ứng dụng:
(1) Có phải quí vị đang đối diện với sự thách thức của một cơ hội truyền giáo, nhưng phải chăng quí vị có lòng sợ hãi? Khi ấy hãy tìm một tín hữu trưởng thành và tìm kiếm sự khích lệ và sự dẫn dắt của họ hầu làm cho lòng tin cậy của quí vị được vững vàng trong Chúa.
(2) Có lẽ quí vị biết người nào đang đối diện với sự thách thức của một cơ hội truyền giáo, nhưng lại thối lui vì cớ sợ hãi. Thế thì hãy tìm cách bước tới mà khích lệ họ.
(3) Có phải quí vị e sợ các cơ hội truyền giáo chăng? Thế thì hãy đánh giá lối suy nghĩ của quí vị xem! Phải chăng quí vị đang biến những đụn đất thành một hòn núi không? Phải chăng đôi mắt của quí vị đang nhắm vào nan đề hơn là nhắm vào Chúa? Phải chăng quí vị đang tìm kiếm hạnh phúc, ý nghĩa và sự an ninh từ những con người hơn là nhắm vào Đấng Christ? Phải chăng quí vị đang yên nghĩ trên những lần đắc thắng trong quá khứ thay vì trên sự hiện diện và tiếp trợ của Đức Chúa Trời.

***



Thứ Tư, 26 tháng 2, 2014

Bài 8: I Các Vua 18:1-6: LỜI ĐỨC CHÚA TRỜI ĐẾN VỚI ÊLI: SỰ ĐƯƠNG ĐẦU TẠI NÚI CẠTMÊN (Bối cảnh 1)


Bài 8:
LỜI ĐỨC CHÚA TRỜI ĐẾN VỚI ÊLI
(I Các Vua 18:1-6)
Sự đương đầu tại Núi Cạtmên (Bối cảnh 1)
PHẦN GIỚI THIỆU:
Các truyện tích trong Kinh Thánh được xây dựng quanh ba yếu tố chính: bối cảnh, nhân vật, và một cốt truyện. Thêm vào ý nghĩa có tính văn học sử, bối cảnh thường gợi ra ý nghĩa có tính tượng trưng. Khe Kêrít, nơi cắt đứt, và Sarépta, một nơi luyện lọc, cả hai đều phác hoạ ra ý tưởng thử thách và luyện lọc mà Đức Chúa Trời đưa chúng ta trải qua để biến đổi tánh tình của chúng ta. Bối cảnh của Núi Cạtmên cũng có tính biểu tượng như thế. Trong Kinh Thánh, sự mặc khải thường diễn ra trên các ngọn núi (thí dụ, cuộc gặp gỡ với Đức Chúa Trời của Môise trên Núi Sinai; cuộc chạm trán của Êli với các thầy tế lễ thần Baanh trong chương nầy trước mặt cả Israel; cuộc chạm trán của ông với chính mình Đức Chúa Trời trong chương 19; và sự hoá hình của Chúa Jêsus trên Núi Ôlive).
Chương 18 là câu chuyện nói về sự đối đầu của Êli với các thầy tế lễ thần Baanh trên Núi Cạtmên, nhưng đây cũng là câu chuyện nói tới phần kết thúc của ba năm rưỡi hạn hán trong xứ Israel. Thực ra, trong cách duy trì cốt truyện trong câu chuyện nói tới Êli là một loại truyện tích anh hùng, cuộc đối đầu trên Núi Cạtmên đã được vạch ra hầu tỏ bày hai sự việc: (a) ấy là cơn hạn hán không những là một sự trùng khớp tình cờ của thiên nhiên, mà còn là thứ kỷ luật thiêng liêng đến từ Đức Giêhôva nữa, là Đức Chúa Trời chơn thật có một, và (b) cơn mưa và sự kết thúc nạn hạn hán đều là công việc của Đức Giêhôva. Đây không phải là công việc của thần Baanh, là thần mà người ta gọi là thần sấm, thần mưa, và thần trúng mùa đâu! Chương nầy và sự cố Cạtmên đã được vạch ra để dạy cho chúng ta biết rằng các thần giả dối dù là loại nào – vật chất, tư tưởng, hay con người – toàn bộ đều là bất xứng cả. Tất nhiên, dù là thần nào mà chúng ta đem lòng tin cậy đặt vào đó thay vì Đức Chúa Trời hằng sống chơn thật đều là thần giả dối như đã được đề ra cho chúng ta trong Kinh Thánh.
Trong quá trình phát triển câu chuyện rộng rãi nầy cùng lẽ thật của nó, một số các sự cố và diễn tiến nhỏ hơn đang xảy ra và mỗi thứ đó đều có sứ điệp riêng của nó để thuật lại và dạy dỗ lẽ thật, đấy là một chi tiết trong câu chuyện và hình ảnh lớn lao hơn. Chúng ta hãy tập trung sự chú ý của mình vào sự đến của Lời Đức Giêhôva cho Êli cùng những phương hướng mới mà ông đã nhận lãnh từ nơi Chúa, mọi điều đó đứng vững chắc đối ngược lại mọi hành vi của Aháp.
Như một phần ôn lại ngắn ngủi về bối cảnh, chúng ta đã nhìn thấy Êli trong các điều kiện khác nhau:
(1) Trong 17:1 chúng ta nhìn thấy ông công khai đương diện với Aháp gian ác lần đầu tiên và cảnh cáo Aháp về cơn hạn hán hầu đến. Ông đã làm như thế như một người biết đứng vững, sống cho và hầu việc trong sự trung kiên tỉnh thức và sống động cho Đức Giêhôva, là Đức Chúa Trời chơn thật của Israel. Sự thật về nạn hạn hán và giờ đây sự kết thúc nạn ấy bởi lời nói của Êli nối theo sau là cuộc thử thách trên Núi Cạtmên, sẽ minh chứng rằng chỉ có hạng tiên tri của Đức Giêhôva mới đại diện cho Đức Chúa Trời chơn thật và nói ra lẽ thật, và Đức Chúa Trời đòi hỏi sự vâng phục từ phía dân sự Ngài. Một thời kỳ cảnh tỉnh và công bố.
(2) Kế đó chúng ta nhìn thấy vị tiên tri đang sống ẩn dật bên cạnh khe Kêrít, không nghi ngờ chi nữa đã trở thành một thời gian dành cho ông ở riêng một mình với Đức Chúa Trời hầu rút tỉa mọi nguồn lực siêu nhiên của mình từ nơi Chúa – Ngôi Lời và sự cầu nguyện. Đây là một thời kỳ sửa soạn cho những việc hầu đến.
(3) Sau cùng, chúng ta nhìn thấy Êli ở Sarépta trong nhà của người đờn bà goá nghèo khổ. Điều nầy đã trở thành một nơi thử nghiệm, làm chứng và khẳng định.
Tất cả mọi sự nầy góp phần nhắc cho chúng ta nhớ rằng trong quá trình kiến thiết mục đích rộng rãi của Đức Chúa Trời cho đời sống của một người, Đức Chúa Trời luôn luôn tác động để thử nghiệm, huấn luyện, và sửa soạn chúng ta cho nhiều việc khác. Chúng ta cần phải học biết tầm quan trọng của việc sống trung tín ở các trách nhiệm nhỏ hơn trong cuộc sống. Giờ đây ba năm đã trôi qua và đây là lúc cho Đức Chúa Trời thực hiện mục tiêu của Ngài cho Israel qua vị tiên tri. Êli là một công cụ được tôi luyện sắc bén cho những việc sắp tới, nhưng chẳng có gì khác biệt đối với chúng ta – nếu chúng ta sẵn sàng chịu tôi luyện và được đại dụng.
Nếu những gì Êli đã làm trong 17:1 cần phải có lòng can đảm, chúng ta có thể dám chắc rằng những gì ông sắp làm hiện nay cần phải có gấp đôi lòng can đảm và đức tin. Sự khẳng định và kinh nghiệm với người đờn bà goá cùng con trai của bà ta đã được vạch ra đúng lúc để giúp cho Êli biết sẵn sàng cho chặng đường kế tiếp trong ý chỉ của Đức Chúa Trời.
Chúa chúng ta thật là đặc thù và giàu ơn dường bao! Nếu chúng ta chịu lắng nghe, Đức Chúa Trời sẽ nắm lấy quyền hành động lo sửa soạn chúng ta cho các chức vụ mà Ngài đã dành cho chúng ta trong hàng tá phương thức. Ngài sẽ ban cho chúng ta đúng phân đoạn Kinh Thánh, hoặc Ngài sẽ đưa đúng người với một lời thách thức và quở trách, một lời yên ủi và khích lệ, hoặc một sự bày tỏ nào đó về ân điển của Ngài. Dù là trường hợp nào, Chúa luôn luôn quan tâm đến mọi nhu cần của chúng ta và trong sự quan phòng đầy tình yêu thương của Ngài, Ngài lo tìm kiếm những phương thức để xây dựng đời sống chúng ta và sửa soạn chúng ta cho chức vụ. CHÚNG TA CÓ CHỊU LẮNG NGHE KHÔNG?
Nguyên tắc “từng ngày từng lúc” (18:1a)
“Sau một ít lâu” là cùng một cấu trúc mà chúng ta đã có trong I Các Vua 17:7 và 17. Sát nghĩa là, “sau đó một thời gian”. Một lần nữa, chúng ta được nhắc nhớ rằng điều nầy không xảy có do cơ hội đâu, mà do sự tính toán thời biểu của Đức Chúa Trời, Ngài đang bày tỏ ra mọi mục đích của Ngài với Êli và Israel. Chúng ta cần phải học biết để nhìn thấy bàn tay của Đức Chúa Trời đang thúc đẩy mọi việc trôi qua trong đời sống của chúng ta tùy theo thời gian cùng các mục đích mà Ngài đã tính toán dường bao! Giống như tư tưởng của Ngài không phải là tư tưởng của chúng ta, cũng vậy, thời điểm của Ngài cũng chẳng phải là thời điểm của chúng ta.
“Cách lâu ngày”. Hãy chú ý đi – không những sau nhiều năm tháng, hoặc vào năm thứ ba, như câu Kinh Thánh nói “cách lâu ngày . . . trong năm thứ ba”. Cho phép tôi đưa ra một số đề xuất đối với cách nói nầy?
(1) Đối với dân sự của Đức Chúa Trời, vô luận năm tháng có trôi qua nhanh hay chậm như thế nào đi nữa, Đức Chúa Trời xử lý với chúng ta căn cứ theo cơ sở hết ngày nầy sang ngày khác, từng ngày từng lúc. Mỗi ngày trong đời sống của người tin Chúa là quan trọng đối với Đức Chúa Trời và cũng rất quan trọng đối với chúng ta. Để minh họa cho vấn đề nầy, trong Cơn Đại Nạn khi nói về các nước hay Con Thú cùng hệ thống của nó, Đức Chúa Trời đo thời gian theo giới hạn của các tháng (42 tháng – Khải huyền 11:2; 13:5). Thế nhưng khi nói về các thánh đồ và những ngày của họ trong Cơn Đại Nạn, thời gian được đo theo giới hạn của ngày (Khải huyền 11:3-6; 12:6). Tại sao vậy? (a) Bởi vì không một ngày nào dành cho người tin Chúa mà không quan trọng đối với Đức Chúa Trời cho dù chúng ta là ai, chúng ta đang ở đâu, tình trạng của chúng ta có đau khổ hay vô nghĩa ngần nào! Đức Chúa Trời đang chăm sóc chúng ta và Ngài quan phòng đến từng chi tiết trong đời sống của chúng ta (I Phierơ 5.7).
Nếu Đức Chúa Trời quan phòng như thế, sao tôi lại không được mạnh khoẻ vậy? Điều nầy có ý nói chúng ta cần phải cẩn thận coi chừng cách chúng ta đang ăn ở mỗi ngày. Mỗi ngày cần phải được bù đắp lại bằng cách ăn ở một cách dè dặt và khôn khéo vì mọi xu hướng tội lỗi của chính chúng ta và lời đe doạ thường xuyên của kẻ thù chúng ta (Êphêsô 5:15-16). Mỗi ngày cần phải được đong đếm, kể là quan trọng với nhiều cơ hội trong nhận thức cuộc sống nầy rất ngắn ngủi (Thi thiên 90:12; 39:4-5). Mỗi ngày cần phải được xem xét theo ánh sáng của cõi  đời đời vì mỗi ngày đều có những chi nhánh của cõi  đời đời. Cần có thì giờ ở đời nầy để chất chứa của cải ở trên trời (I Phierơ 1:13…; Truyền đạo 3:9-13; 9:10).
(2) Chữ “lâu” dẫn tới một tiêu điểm khác cần phải suy gẫm. Như chúng ta đã thấy ở 17.7, câu nầy sát nghĩa thì đọc là “cuối những ngày ấy”. Điểm chủ yếu ở đó chỉ ra một thời kỳ và một chương trình thật đặc biệt. Đức Chúa Trời đã tiếp trợ cho Êli trong một số ngày nhất định bên khe suối, chỉ có Đức Chúa Trời từ cõi  đời đời mới biết rõ mà thôi, còn Êli thì không biết được. Trong khi vấn đề nầy cũng được tính đến ở đây, có một sự thay đổi trong phần nhấn mạnh. Nếu chúng ta tin theo sự cảm thúc hoàn toàn, từng chữ một, không thể sai lầm được của Kinh Thánh, chúng ta cần phải nhìn thấy sự thay đổi nầy không phải là do may rủi đâu. Có một lý do và lý do đó tỏ ra qua văn mạch có phần tham khảo theo sau xét tới tình trạng nghiêm trọng của nạn đói và sự liên kết của Aháp và Ápđia đang đi tìm nước.
Chúng ta hãy tái dựng lại bức tranh đó. Êli được Đức Chúa Trời sai phái lo hoàn thành một sứ mệnh, kế đó Đức Giêhôva sai ông ra khỏi đó. Đồng thời có những việc đi từ xấu đến tồi tệ hơn trong xứ Israel. Êli được giấu trong một thành phố dân Ngoại lo phục sự cho hai người thay vì hai tá. Tất nhiên, ông là một nguồn phước cho người đờn bà nầy cùng con trai của bà ta như chúng ta đã thấy. Thế nhưng chúng ta sẽ lấy làm lạ, ông đã chẳng làm gì thêm trong xứ Israel cho việc rao giảng Ngôi Lời? Còn chương trình của Đức Chúa Trời đã có khác rồi! Vì vậy thời gian qua đi và dường như là cách lâu ngày” cho Êli, chắc chắn ông là người mong muốn được hành động. Sự thể cho thấy dường như quá lâu ngày cho cả nước đang chịu khổ dưới nạn hạn hán trong ba năm rưỡi.
Quí vị có cảm thấy sự việc như xảy ra cho đời sống của quí vị không? Đôi khi nhiều ngày dường như là nhiều tuần lễ và nhiều tháng dường như là nhiều năm vậy? Khi những ngày dường như là lâu lắc quá, chúng ta cần phải làm gì đây? Khi những thời điểm đó xảy đến, tôi tin Đức Chúa Trời muốn chúng ta phải nhớ rằng Ngài là El Olam, Đức Chúa Trời của cõi  đời đời với Ngài một ngày như ngàn năm và ngược lại. Phải sinh hoạt như thế nào trong thời gian ấy chứ?
Danh xưng nầy dành cho Đức Chúa Trời, El Olam, và chữ Hy bá lai là olam, thường được dịch là “đời đời”, được sử dụng để nói tới khoảng thời gian  đời đời của Đức Chúa Trời (Thi thiên 90:2: “Từ trước vô cùng cho đến đời đời, Ngài là Đức Chúa Trời”), chữ ấy còn nhấn mạnh đến tình trạng không dời đổi, bất biến, và thành tín của Đức Chúa Trời nữa. Là Đức Chúa Trời  đời đời, Ngài cũng là Đấng luôn luôn được kể đến.
Điều nầy có ý nói gì với người tin Chúa khi nhìn thấy hầu hết các phân đoạn Kinh Thánh, những chỗ mà El Olam hay Olam được sử dụng (Thi thiên 25:6; 93:2; 100:5; 103:17; 125:1; Êsai 26:4; 51:6; 40:28; Sáng thế ký 21:33). Điều nầy có ý nói cuộc sống đầy dẫy những đổi thay cùng những bất ổn và thời gian thường được xem là “lâu ngày”. Những hoàn cảnh đổi thay, thời gian đổi thay, con người thay đổi, các thứ nhu cần đều thay đổi. Chúng ta nhìn thấy điều nầy mỗi ngày khi chúng ta nếm trải cuộc sống. Mọi nhu cần của người ta khi là một đứa trẻ, là một thanh thiếu niên, là một người lớn, hay như một người lớn trong những năm xế chiều của cuộc sống, đều thay đổi. Hơn nữa, thế giới, chính phủ, xã hội của chúng ta, mọi sự đều chịu sự thay đổi, và thường thì càng tệ hại hơn như chúng ta đang nhìn thấy xã hội của chúng ta ngày nay. Còn Đức Chúa Trời, là El Olam, không bao giờ thay đổi. “Hôm qua, ngày nay cho đến  đời đời Ngài không thay đổi” (Hêbơrơ 13:5).
Kinh Thánh dạy chúng ta rằng tình trạng  đời đời của Đức Chúa Trời là nền tảng cho tính bất biến, tính không đổi thay của Ngài, đấy là nền tảng cho sự thành tín của Đức Chúa Trời và khả năng của Ngài chăm sóc chúng ta và Ngài đến để vùa giúp chúng ta. Hêbơrơ 1:12b nhắc cho chúng ta nhớ sự kiện nầy là rất thực. Ngược lại với thế gian đang đi dần xuống thấp giống như một chiếc đồng hồ vậy, chúng ta đọc: “Song Chúa không hề biến cải, các năm Chúa không hề cùng” (đối chiếu Thi thiên 102:26-27).
Vì vậy, điều nầy có ý nghĩa gì đối với dân sự của Đức Chúa Trời? Điều nầy tác động như thế nào vào đường lối chúng ta suy nghĩ và đáp ứng với cuộc sống cùng mọi thay đổi thường xuyên của nó và ngày của nó đôi lúc giống như là lâu lắc quá? “Ngươi không biết sao, không nghe sao? Đức Chúa Trời hằng sống, là Đức Giêhôva, là Đấng đã dựng nên các đầu cùng đất, chẳng mỏi chẳng mệt; sự khôn ngoan Ngài không thể dò. Ngài ban sức mạnh cho kẻ nhọc nhằn, thêm lực lượng cho kẻ chẳng có sức” (Êsai 40:28-29). Hai thuộc tính kỳ diệu của Đức Chúa Trời là El Olam được công bố cho chúng ta trong Êsai 40. Khi nhận biết các thuộc tính nầy, sự biết đó sẽ làm thay đổi lối sống của chúng ta.
Đức Chúa Trời không hề mệt mỏi. Ngài không bao giờ biết mệt mỏi. Đức Chúa Trời đã nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy không phải vì Ngài bị mệt đâu, nhưng vì công việc sáng tạo của Ngài đã hoàn tất rồi. Ngài chẳng mỏi chẳng mệt. Vậy thì điều nầy có ý nói gì? Êsai trả lời trong câu đứng kế đó: Ngài ban sức mạnh cho kẻ nhọc nhằn, thêm lực lượng cho kẻ chẳng có sức” (Êsai 40:29…). Câu nầy có ý nói Đức Chúa Trời hiện diện ở đó vì chúng ta hết ngày nầy sang ngày khác qua những thăng trầm và qua những ngày ấy dường như là quá lâu ngày vậy. Vì lẽ ấy, chúng ta cần phải làm gì đây? Chúng ta cần phải chờ đợi nơi Chúa và tìm kiếm sức lực của chúng ta trong sự quan phòng của Ngài.
Sự hiểu biết của Đức Chúa Trời không thể dò được. Sự hiểu biết của Đức Chúa Trời không có phần kết thúc. Ngài biết sự cuối cùng từ lúc sáng thế và từng chi tiết trong đời sống và lịch sử của chúng ta. Đức Chúa Trời biết Ngài sẽ làm gì và những gì Ngài sẽ làm là tốt nhứt cho dù có thể nào nơi phần của chúng ta.
Tôi nghĩ từ Hy bá lai Olam rất là quan trọng, trong đó có ý tưởng kín nhiệm nữa. Những việc kín nhiệm thuộc về Đức Giêhôva. Là Đấng Ta Là  đời đời, là Anpha và Ômêga, là Đầu và là Rốt, mọi sự đang diễn tiến theo mọi mục đích của Ngài (đối chiếu Êsai 46:9-11). Vì thế, khi thời thế của chúng ta dường như quá lâu ngày, chúng ta đừng chạy trước hoặc bỏ đi, mà hãy yên nghỉ trong Chúa là El Olam. Chúng ta phải chờ đợi nhiều nơi Chúa giống như Êli và đừng di chuyển cho tới chừng nào Chúa bảo ra đi. Êli không lấy làm lo hay mạo hiểm ra khỏi nơi yên nghỉ theo ý riêng của ông. Ông không có than phiền, mà chỉ tiếp tục lo giữ phần tương giao mật thiết của mình với Đức Giêhôva mà thôi. Ông đã tin cậy và rất kiên trì chờ đợi Chúa Jêsus dẫn dắt ông, sử dụng ông rồi mở rộng bầu khí quyển đắc dụng và chức vụ của ông theo như Chúa điều phối – nếu Đức Chúa Trời điều phối như thế. Chắc chắn, không có một bó buộc nào với Êli hết! Đồng thời, ông là một nguồn phước cho người đờn bà goá cùng đứa con trai của bà ta và Đức Chúa Trời có quyền sửa soạn ông cho những việc sắp tới.  Nhiều khi chúng ta trở nên vô dụng cho Chúa và cho tha nhân vì bị quá nhiều nan đề quật tới tấp.
Nguyên tắc hướng dẫn dựa theo việc lắng nghe Lời Đức Chúa Trời (18:1b)
Ở đây chúng ta thấy sau cùng Đức Chúa Trời đã phán với Êli và đã sai phái vị tiên tri quay trở lại Israel để đương diện với Vua Aháp và dân sự với lẽ thật. Nhưng Đức Chúa Trời đã phán rồi qua những tình trạng đồng trống trơ trụi rồi đóng ấn các từng trời lại. Hãy chú ý câu 18:2b: “Vả, tại Samari có cơn đói kém quá đỗi”. Có những lúc khi tôi tớ của Đức Chúa Trời cần phải giữ im lặng, khi nhiều tấm lòng trở nguội lạnh và những lỗ tai đã bị điếc. Có những lúc khi Đức Chúa Trời phán qua những thử thách của cuộc sống hầu buộc dân sự phải chú ý, buộc họ phải nhìn thấy nhu cần, tình trạng bất xứng của họ, hoặc tình trạng bất xứng của cuộc sống mà họ đã chọn trong chỗ của Đức Chúa Trời và chương trình của Ngài.
“Lời của Đức Giêhôva” xảy ra trong 17:2, 8, và ở đây. Thực ra, mệnh đề nầy xảy ra trong Kinh Thánh những 254 lần. Mệnh đề nầy được sử dụng để nói tới sự khải thị đặc biệt của Đức Chúa Trời cho con người để đem họ đến với chính mình Ngài và để cung ứng phần hướng dẫn cho đời sống của họ mà họ đương có cần trong chỗ thất vọng. Mỗi lần tôi nhìn thấy mệnh đề nầy, tôi được nhắc nhớ về nhu cần của tôi phải đi đến với Ngôi Lời để tìm sự dẫn dắt, để tìm các nguyên tắc và các lời hứa trong Kinh Thánh mà tôi đang cần tới để lèo lái đường lối của tôi hướng theo ý chỉ quí báu của Đức Chúa Trời.
“Hãy đi, ra mắt Aháp, . . .”. Trong I Các Vua 17:3 Chúa truyền cho ông “phải ẩn mình” và giờ đây Ngài truyền cho ông phải “ra mắt”. Êli đã bằng lòng làm theo cả lịnh nầy cũng như lịnh kia. Điều nầy về mặt tự nhiên thì chẳng dễ dàng đâu! Mỗi cái đều đòi hỏi phải có đức tin và mối tương giao với Đức Chúa Trời, và cái nầy là sự chuẩn bị cho cái kia (Luca 16:10).
“Ta sẽ khiến mưa sa xuống đất. . . .”. Dân chúng đã kinh nghiệm sự ứng nghiệm những lời cảnh cáo của Phục truyền luật lệ ký 28 về nạn hạn hán vì cớ sự bất tuân. Giờ đây đã đến lúc phải ban mưa xuống, nhưng dân sự cần phải biết chắc rằng không có mưa và giờ đây mưa sẽ giáng xuống từ nơi Đức Giêhôva chớ không phải từ thần Baanh đâu!
Nguyên tắc vâng phục mặc dù có nguy hiểm (18:2-6)
“Vậy, Êli đi ra mắt Aháp”. Có phải chúng ta nắm lấy đầy đủ ý nghĩa của sự việc nầy rồi chăng? Hãy lưu ý, câu kế đó: “Vả, tại Samari có cơn đói kém quá đỗi”. Có lẽ mấy câu Kinh Thánh nầy mau chóng được thêm vào để giúp cho chúng ta nắm bắt được đức tin và sự ngay thẳng của Êli. Câu nầy cùng những câu nối theo sau (3-6) được vạch ra để làm nổi bật các bối cảnh kinh khủng của nạn hạn hán để chúng ta thực sự nhận ra những điều Êli sắp đối diện với. Hơn ba năm trời, thích ứng với lời cầu nguyện và lời tiên đoán của Êli trước mặt Aháp và triều thần của ông ta, chẳng có giọt mưa nào rơi xuống đất hết. Như một kết quả, đã có đau khổ, khốn cùng, chết chóc, đói kém, và hoang tàn. Với mọi sự đó, cũng có giận dữ, căm hờn, những cảm giác muốn báo thù, mọi thứ nầy đều nhắm hết vào vị tiên tri – đặc biệt là Vua Aháp cùng triều thần của ông ta. Theo cách nhìn nầy, hãy lưu ý tước phẩm mới của Êli ở 18:17. Ông bị coi là “kẻ làm rối loạn ở Israel”. Ông bị đỗ thừa là nguyên nhân rồi bị xem là một cớ rủa sả.
Hơn thế nữa, trong hơn ba năm trời Aháp cứ khăng khăng tìm cho ra Êli để giết chết ông, mà không tìm được. Quí vị có thể hình dung ra tình trạng bẽ mặt trong tấm lòng kiêu căng của nhà Vua, và sự tức tối càng lúc càng tăng lên nghịch lại vị tiên tri, là người đã tránh né cuộc tìm kiếm của nhà Vua, kể cả người cùng các liên minh của ông ta (18:10). Thế mà giờ đây Đức Giêhôva phán: Hãy đi, ra mắt Aháp. Nói như thế cũng như xúi: “Có thấy chiếc xe 18 bánh kia không? Cứ nhảy đại ra trước mặt chiếc xe ấy coi”.
Có một câu chuyện thuật lại về một vị thầy tu minh hoạ cho việc tin cậy Chúa trong các hoàn cảnh khó khăn giống như Êli đã đối diện. Có vị thầy tu, ông xuất sắc hơn mọi kẻ đồng thời với mình, và trong những lúc rỗi rãi và thư giãn ông ta là người canh bầy chim. Buổi trưa kia, ông bước ngang qua một con chim bay ngang qua bờ rìa dốc đá rồi đốt đuốc lên chỗ dốc thấp. Thầy tu xúc động quan sát, nhưng chẳng tìm được gì. Thế rồi ông cứ đi tới xa hơn một chút, một chút cho tới chừng ông bị trượt chân. Khi ông té ngã qua mép vực, ông đã nắm lấy một bụi cây mọc ra từ rặng đá. Hai cánh tay của ông quá mỏi rồi, nhưng là người có đức tin, ông tự hào suy nghĩ: “Có người đến trên đỉnh để cứu ta”. Vì vậy ông ta kêu lên: “Tới đây đi, tôi cần cứu giúp đây. Nào, có ai trên đó không?” Thế rồi ông nghe một giọng nói; giọng nói của Đức Chúa Trời. Giọng ấy nói: “Ta đang ở đây, ngươi có đức tin không?” “Ồ thưa có ạ!” thầy tu trả lời. Đức Chúa Trời đáp: “Thế thì hãy buông tay ra đi  thì ta sẽ chăm sóc cho ngươi. Chỉ hãy yên nghỉ trong sự chăm sóc của ta”. Trong một phút đã có sự im lặng chết chóc, rồi thầy tu nói: “Còn ai khác trên đó không?”
Khi Chúa đưa các hoàn cảnh thử nghiệm và khó khăn vào trong đời sống của chúng ta rồi bảo chúng ta, giống như Ngôi Lời phán dạy, phải tin cậy Ngài và bước đi bởi đức tin, chúng ta hành động như thế nào đây? Chúng ta có nhìn quanh để tìm các giải pháp khác không? Chúng ta có nhìn vào cái túi mưu mẹo của mình rồi bước ra với những đấu pháp tự bảo hộ như lẫn tránh, rút lui, phòng thủ cùng các loại chiến thuật giống như phòng thủ không? Có phải chúng ta ngã lòng? Có phải chúng ta than phiền hay đỗ thừa? Phải chăng chúng ta đánh mất sự vui vẻ của Chúa rồi không? Có phải chúng ta hồi phục lại rồi cập nhật nó không? Hoặc có phải chúng ta bày tỏ ra đức tin cùng bổn tánh giống như Đấng Christ chăng?
Các câu 2-6 đối chiếu bổn tánh của Êli với bổn tánh của nhà Vua. Êli bước ra trong sự vâng phục lo làm theo ý chỉ của Đức Chúa Trời. Ông sẵn sàng nắm lấy chức vụ và đương diện với dân sự về mọi nhu cần thuộc linh của họ. Còn Vua Aháp, là người chăn dân Israel, là một câu chuyện khác. Với dân sự của ông ta đã chịu khổ từ nạn hạn hán, ông ta đang lo tìm cỏ cho bầy lừa, bầy gia súc, hơn là lo liệu cho hoàn cảnh của dân sự mình. (Từ các bản tường trình theo đời nầy, chúng ta biết Aháp có tới mấy ngàn con ngựa).
Đúng là lập dị? Có người nói “lập dị là trạng thái mà một người đang sống trong chỗ tối tăm”. Đó là những gì chúng ta có trong chỗ tư riêng, trong gia đình của chúng ta, khi đối diện với sự cám dỗ, hoặc như ở đây, với thử nghiệm về lòng can đảm của chúng ta khi lợi thế, có thể nói như thế, không nghiêng về phía chúng ta. Êli được kêu gọi bước vào chức vụ, giống như hết thảy những người tin Chúa vậy, và chức vụ ấy là làm vinh hiển cho Đức Chúa Trời cùng phục vụ cho nhu cần của nhiều người khác. Nhưng chức vụ và chức năng lãnh đạo chỉ là loại hình sinh hoạt tôn giáo hoặc thậm chí còn tệ hơn thế nữa – là thương mại tôn giáo – trừ phi có chất thuộc linh thực như sản phẩm của một đức tin sống động và sâu sắc.
Người dòng Pharisi đã gọi những gì họ đã làm là chức vụ và chức năng lãnh đạo, còn Chúa Jêsus gọi đấy là sự giả hình! Chúa Jêsus biết rõ các nghệ sĩ tôn giáo nầy vốn có lòng ưa chuộng về các thứ ích kỷ như địa vị, sự ngợi khen, quyền lực, của cải, và sự an nhàn của họ hơn là mối tương giao và sự phục vụ cho Đức Chúa Trời hằng sống và dạy đạo cho người ta. Bổn tánh Cơ đốc, sống đầy dẫy Đức Thánh Linh, có nghĩa là vâng phục Đức Chúa Trời. Nó có nghĩa là đức tin và lòng can đảm. Nó có nghĩa là phục vụ cho người khác, dấn thân vào và hy sinh.
Đức Chúa Trời phán với Êli: “Hãy đi, ra mắt Aháp, . . .”; đây là mạng lịnh của Đức Chúa Trời, và kế đó “Ta sẽ khiến mưa sa xuống đất. . . .”, đây là lời hứa của Đức Chúa Trời. Nhưng sự vâng phục đối với mạng lịnh nầy cũng có nghĩa là làm vinh hiển cho Chúa. Sự vâng phục đó mang lấy bằng chứng Lời Đức Chúa Trời bởi miệng của các tiên tri của Đức Chúa Trời đều là sự thật. Và sự vâng phục ấy có nghĩa là dân sự Đức Chúa Trời được di dời ra khỏi nỗi đau khổ, và có lẽ có người sẽ nhìn thấy mọi điều nầy và tin theo, đó là ơn phước thuộc linh. Nhưng còn có gì nữa đối với Êli? Đâu là lời hứa dành cho ông về ơn phước và sự giải cứu khỏi tay Aháp? Lời hứa đó không có ở đó, ít nhất là không trực tiếp!
Đối với người có lòng tin, là sự ngay thẳng và bản chất thuộc linh, đối với người nào kính sợ Chúa và yêu mến dân sự, ơn phước nằm ở trong đặc ân phục vụ Chúa và dân sự, trong chỗ nhìn thấy danh của Đức Chúa Trời được xác định là đúng đắn và Satan đã bị đánh bại. Đây là mục tiêu tối hậu của Ngôi Lời – lòng kính sợ Đức Chúa Trời và yêu thương tha nhân (Mác 12:29-34). Đây là trọng tâm của chức vụ – Phục vụ và Hy sinh! Mỉa mai thay, những gì nhiều người nhìn biết về sự phục vụ và hy sinh chỉ là đánh vần sao cho đúng từ mà thôi. Êli phải hướng mắt mình nhìn xem Chúa và, như ông đã tỏ ra trong 17:1, sống trong ánh sáng của sự sinh động và thành tín của Đức Chúa Trời mình giống như Đức Chúa Trời với hai cánh tay  đời đời vậy.
Các câu hỏi ứng dụng:
(1) Có phải chúng ta đang sống từng ngày từng lúc, yên nghỉ và chờ đợi nơi Chúa là El Olam và rút tỉa lấy sự khôn ngoan cùng sức lực của Ngài, chờ đợi thì thuận tiện trọn vẹn và khôn ngoan của Ngài không?
(2) Có phải chúng ta đang lắng nghe Đức Chúa Trời mỗi ngày qua Kinh Thánh không? Có phải chúng ta đang dành thì giờ để học hỏi các nguyên tắc của Đức Chúa Trời và rồi có phải chúng ta đang sử dụng chúng để lèo lái con đường của chúng ta, để gây dựng đức tin và bổn tánh hầu giữ chúng ta không chạy trước Chúa với các đấu pháp của mình không?
(3) Có phải chúng ta có lòng can đảm để hành động theo sự tin quyết của chúng ta không? Hoặc có phải chúng ta đang tìm kiếm những phương thức để tránh né không bước đi bằng đức tin và bằng sự tin cậy Chúa không? Điều chi đang diễn ra trong cuộc sống của quí vị, nó cần có một quyết định của đức tin, nhưng quí vị lại sợ hãi không dám đưa ra vì có những hậu quả khả thi chăng?

***